Thứ Hai, 25 tháng 6, 2018

clip hội ngộ Sao biển 2008



Tìm lại chút kỷ niệm xưa của anh em 72 tại hội ngộ 50 năm Sao Biển 2008. Hẹn gặp lại 2018.

link . đầu hội ngộ

link : đầu thánh lễ

link : tiếp bài giảng

link 5: tiếp thánh lễ

link    : văn nghệ và các lớp giới thiệu

link : thăm lại trường xưa

link: phóng sự vui sb72 tại chòi lá

link : múa và giới thiệu quý Đức Cha, quý ân sư

link: tham quan nha trang

link : tham quan Tháp Bà

link: thăm trường xưa và khu du lịch Wonderpark


link: bên nhau trên sân ĐCV và đêm đầu tiên

link: thăm phòng triển lãm và đêm khai mạc

link: vui chơi tại chòi

link: vui chơi tại chòi phần 2
link : chia tay...ủng hộ

link: chat ooVoo với anh em hải ngoại và chia tay

 

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

CẦN MỘT BỜ VAI - THÀNH TUY HẠ



CẦN MỘT BỜ VAI.
TRUYỆN DÀI

Tác giả:       Phêrô Trần thế Huy.
Bút danh:    Thành Tuy Hạ.




 Quen nhau, rồi yêu nhau, từ những ngày còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. An và Hoài đã tính tới chuyện hôn nhân, và cùng hứa hẹn sẽ làm đám cưới sau khi tốt nghiệp. Cha mẹ hai bên cũng đã đồng ý và tán thành cho cuộc tình duyên của đôi bạn trẻ.
Một chiều nọ, khi vừa từ giảng đường trở về nhà. Hoài nhận thấy có bóng dáng vài người cảnh sát, họ đứng ngồi lố nhố trước sân nhà mình. Nàng lấy làm lạ là không biết đã có chuyện gì xảy đến với gia đình mình đây?
Hoài vừa bước chân vào trong sân, một viên cảnh sát tiến lại gần nàng và hỏi:
- Có phải cô là con của ông bà Linh không?
Thấy họ hỏi và nhắc đến tên của ba mẹ mình. Hoài lo sợ:
- Vâng, tôi là con gái của ông bà ấy. Nhưng các chú hỏi thăm ba mẹ tôi có việc gì không?
Các viên cảnh sát lấy làm ái ngại sau khi nghe Hoài hỏi, có lẽ họ sợ điều mà họ sắp nói ra, làm cho người đối diện bị sốc nên còn chần chừ. Thấy họ nhìn nhau im lặng Hoài sốt ruột:
- Thế ba mẹ của tôi có chuyện gì, sao các chú không nói?
Lúc này, một viên cảnh sát đặt bàn tay lên vai của Hoài, như để trấn an nàng và nói:
- Chúng tôi đến để chia buồn, và báo cho cô biết là ba mẹ của cô đã mất vì bị tai nạn giao thông.
Viên cảnh sát vừa nói đến đây, Hoài chỉ kịp la lên hai tiếng ‘ba mẹ ơi’ và sau đó thì ngã quỵ. Mọi người bèn dìu nàng vào nhà và đặt nằm lên giường. Một lúc sau Hoài tỉnh dậy và gào khóc:
- Ba mẹ ơi! Trên đời này, con chỉ có mỗi ba mẹ là người thân yêu duy nhất, cớ sao ba mẹ lại bỏ con mà đi?
Phần An, vừa về đến nhà và chưa kịp thay quần áo thì nghe bố mẹ mình báo tin, An quẳng vội cặp sách lên giường và chạy ngay đến nhà Hoài. Lúc này thi thể của hai ông bà Linh cũng đã được chuyển về nhà. Nhìn thấy Hoài lăn lộn khóc lóc, vật vã bên thi hài ba mẹ, khiến những người hàng xóm và khách khứa tới viếng thăm không thể cầm nỗi nước mắt. An ngồi xuống, và ôm ghì lấy đôi vai bé bỏng của người yêu đang rung lên từng chập, mà hai hàng nước mắt đua nhau chảy ròng, chàng không ngờ mọi chuyện lại xảy đến quá bất ngờ và đầy tang thương như vậy, khi mà chỉ còn hơn một tháng nữa là hôn lễ giữa An và Hoài được tiến hành.
- Thôi em bớt đau buồn, vì dù sao ba mẹ em cũng đi rồi. Nhưng bên cạnh em còn có anh, anh nguyện sẽ yêu thương và bảo vệ cho em.
Hoài vẫn khóc thổn thức:
- Ba mẹ ơi! Ba mẹ luôn ước ao được chứng kiến ngày hạnh phúc của con, ba mẹ không thương con hay sao mà vội bỏ đi. Rồi đây con sẽ sống như thế nào khi không có ba mẹ bên cạnh?!
An ôm lấy Hoài và vỗ về, Hoài ngước nhìn An với đôi mắt đỏ hoe:
- Em cám ơn anh.
Nuốt vội những giọt nước mắt đang nghèn nghẹn nơi cổ họng, Hoài nói tiếp:
 - Cho dù anh có yêu thương em đến đâu đi nữa, thì cũng không sao sánh được với tình thương của cha mẹ dành cho em cả.
 Nói về cha mẹ của Hoài thì khi lấy nhau về, hai ông bà cố gắng mãi cũng chỉ được mỗi mình Hoài. Do đó tất cả tình thương họ đều dồn hết cho đứa con gái rượu của mình. Riêng Hoài, vì là đứa con gái duy nhất, lại được sống trong sự yêu thương và nuông chiều của cha mẹ, nên giờ đây khi cha mẹ không còn nữa, Hoài bỗng thấy hụt hẫng, và mọi chuyện đối với nàng lúc này đều trở nên vô nghĩa. Và mặc dù lúc này, tuy luôn có An ở bên cạnh, nhưng sao Hoài vẫn có cảm giác cô đơn và trống vắng. Âu đó cũng là lẽ thường tình, khi cuộc sống bỗng dưng bị thay đổi mà không hề có một sự báo trước.

Sau cái chết của cha mẹ mình, Hoài như người thất thần. Nàng chẳng thiết tha gì về chuyện cưới hỏi của mình, và cũng như không muốn ai nhắc nhở về chuyện này, dù rằng trước đó gia đình hai bên đã thống nhất. Một câu chuyện quan trọng gắn bó cuộc đời của hai đứa, mà khi còn sống, ông bà Linh đã từng trao đổi và giao kết với ông bà Tiến.
 Về phía gia đình nhà An tuy việc cưới hỏi cũng đã được chuẩn bị đâu ra đấy, nhưng vì tai nạn xảy đến bất ngờ cho ông bà thông gia, nên mọi chuyện đành phải gác lại. Và họ dự tính sẽ tiến hành chuyện hợp hôn cho đôi bạn trẻ, một khi việc tang chế đã lắng dịu. Và ông bà Tiến hy vọng rằng, lúc ấy nỗi buồn của Hoài ít nhiều cũng đã nguôi ngoai theo năm tháng.
 Người ta thường nói ‘Thời gian là liều thuốc hữu hiệu nhất để chữa lành những vết thương’. Nhưng đối với Hoài, ba mẹ là tất cả, là lẽ sống duy nhất của đời nàng, nên việc để quên đi hình ảnh của ba mẹ, quên đi những mối thâm tình giữa nàng và ba mẹ trong quá khứ không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, để cho tương lai cũng như hạnh phúc của mình, không bị trói buộc bởi quá khứ. Hoài phải đành lòng gác lại và tạm quên đi những chuyện đau buồn đã qua, để chấp nhận một hướng đi mới cho cuộc đời mình.


Cuối cùng thì những chờ đợi và mong mỏi cho việc trăm năm cũng đã đến. Đám cưới của Hoài và An được diễn ra đúng như ý nguyện của hai gia đình. Nhìn thấy cha mẹ và anh em họ hàng bên phía nhà An đông đủ, Hoài cảm thấy buồn tủi cho mình, đảo mắt nhìn quanh chả thấy bóng dáng một người thân, chỉ có lèo tèo vài ba đứa bạn học đến tham dự theo lời mời của Hoài. Bạn bè tuy nhiều, nhưng Hoài cũng chỉ mời những đứa khi còn đi học, thường hay lui tới và chơi thân với Hoài mà thôi.
Và hôn lễ của đôi bạn trẻ cũng đã được tiến hành sau nhiều sự kiện ngăn trở. Xúng xính trong chiếc áo cưới màu hồng thắm. An nắm tay Hoài, cả hai cùng sánh bước bên nhau tiến vào thánh đường. Hoài với nét mặt hồng hào rạng rỡ:
- Anh An ơi! Lúc nãy anh nắm tay em và thề sẽ chung sống với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe…Nghe anh nói mà em muốn rớt nước mắt, vì thấy mình hạnh phúc quá đỗi.
An vừa hôn lên tóc vợ vừa nói:
- Anh cũng vậy, anh rất cảm động khi em thề sẽ yêu thương và tôn trọng anh suốt cuộc đời…Em có nhớ không?
So sánh với các bạn gái học cùng khóa, cùng trường, Hoài thấy mình quả là may mắn khi lấy được An, một mẫu người đàn ông khá lý tưởng. Nhà An rất giàu, An lại học giỏi và chàng cũng có chung một tình cảnh giống như Hoài, đó là ông bà Tiến cũng chỉ sanh được mỗi mình chàng là đứa con trai đứa duy nhất.

Cầm trong tay mảnh bằng tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi. An và Hoài đi tìm việc làm rất dễ. Không những dễ xin việc, ngược lại các công ty còn đưa ra những lời chào mời và rào đón hai vợ chồng, với mức lương rất hấp dẫn cùng những chế độ ưu đãi đặc biệt. Do có thu nhập hậu hĩnh, nên chỉ sau vài năm chung sống, hai đứa đã tích trữ được một số vốn trong tay khá là dồi dào. Và lúc này thì ước mơ có một căn nhà sang trọng đẹp đẽ, cùng với đầy đủ tiện nghi vật chất và một chiếc xe hơi bóng lộn đậu ngoài sân đã gần như nằm trong tầm tay của hai vợ chồng.
Kinh tế khấm khá, công việc đã ổn định và chuyện phải có một đứa con cho lâu đài hạnh phúc đã được An và Hoài nghĩ tới. Cuối cùng thì sự chờ đợi của họ cũng được toại nguyện, đứa con gái đầu lòng đã chào đời trong niềm hân hoan vui sướng tột cùng của An và Hoài cùng với gia đình bên nội. Nét vui mừng hân hoan lộ rõ trên khuôn mặt của An, chàng âu yếm nhìn vợ:
- Con gái mình nó giống em như đúc.
Hoài nhõng nhẽo với chồng:
- Nó cũng đẹp và thông minh như anh.
 Bạn bè hay tin mang theo những món quà tặng ý nghĩa trong tay, kéo đến đầy nhà chúc mừng và chung vui với hai vợ chồng…Ai nhìn thấy cũng tấm tắc khen ngợi đôi vợ chồng trẻ thật hạnh phúc, và đạt được nhiều thành công mỹ mãn trong tình duyên lẫn sự nghiệp.
Phần Hoài, nhìn thấy con, lòng nàng càng buồn rười rượi hơn khi nghĩ đến ba mẹ. Phải chi ba mẹ còn sống đến ngày hôm nay, thì các ngài sẽ vui sướng biết mấy!
Hoài thắp nén hương và cúi gập người bái lạy cha mẹ trước bàn thờ, nơi mà trên đó, hình ảnh của người cha và người mẹ dấu yêu của Hoài đang nhìn nàng mỉm cười. Hoài nghẹn ngào thổn thức:
- Mới ngày nào đây mà nay ba mẹ xa con đã được năm năm rồi. Ôi biết đến thuở nào ba mẹ và con lại được sum vầy trên Thiên Quốc!
Quay sang nhìn con, Hoài nói tiếp:
- Cháu ngoại của ba mẹ đây. Tội nghiệp nó không được nhìn thấy ông bà ngoại và không được ông bà ẳm bồng nâng niu.


Nếu cuộc đời luôn trôi qua trong yên bình thì thật là đáng quý, đáng sống. Đâu có chuyện nay đôi vợ chồng này phải ra tòa hòa giải, mốt lại đôi khác ra tòa xin ly hôn. Tình yêu vợ chồng được ví như một đại dương mênh mông, mà trong đó thỉnh thoảng chúng ta thường thấy xuất hiện những con sóng, và theo như nhà thơ Xuân Quỳnh khi nói về sóng biển từng viết “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”, cũng giống như tình yêu khi thì dữ dội lúc lại rất dịu êm. Hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ An và Hoài tưởng rằng cũng sẽ lặng lẽ, dịu êm…Đâu có ai nghĩ rằng rồi có lúc nó cũng trở nên ồn ào, dữ dội…
 Làm cùng phòng với An, không thiếu các cô thư ký và kế toán xinh đẹp. Trong số này chỉ một vài cô là đã lập gia đình, các cô còn lại thì An không hiểu vì sao họ vẫn còn đơn chiếc, đâu phải các cô ấy xấu xí hay là không có duyên. Trước mắt An, mỗi cô đều có riêng một nét đẹp mà ông trời đã phú cho…Cô thì đẹp thùy mị dịu dàng, cô khác lại lộng lẫy kiêu sa. Nói chung là tất cả đều dễ nhìn, không có cô nào quá tệ, và ai trong bọn họ cũng đều là những người nằm trong giới trí thức của công ty, được tuyển chọn khá kỹ lưỡng, phù hợp với mọi ngành nghề và họ được trả những mức lương rất cao.  
Riêng về An thì dựa vào trình độ chuyên môn và khả năng của chàng, công ty đã bố trí vào chức vụ trưởng phòng kế hoạch. Do yêu cầu công việc, nên mọi sinh hoạt và giao tiếp cũng như gần gũi với các cô thư ký và kế toán ở cùng phòng là chuyện đương nhiên. Thỉnh thoảng vào giờ giải lao, các cô ấy không đi ra ngoài mà ở lại trong phòng tán gẫu với An cho vui.
Người ta thường nói ‘lửa gần rơm lâu ngày cũng bén’. Những nụ cười duyên của các cô dành cho An, cùng với những cái liếc mắt đưa tình, đã làm cho bản năng của người đàn ông trong An trỗi dậy…An thèm muốn và lên kế hoạch hòng tìm cách chiếm đoạt những thân hình nóng bỏng kia làm sở hữu của riêng mình. Ngồi nhìn ngắm các cô lượn qua lượn lại trước mặt, với những chiếc áo dài muôn màu sắc mà họ đang mặc, và những chiếc áo này luôn ôm sát lấy những cơ thể đang căng tràn sức sống. Ngoài ra qua làn vải mỏng, những vòng eo thon gọn hấp dẫn cùng những bộ ngực nẩy nở, phập phồng của các cô gái mới lớn, chúng như phô diễn và tạo ra một sự thèm khát mãnh liệt, tất cả đã quyến rũ An đến ngẩn người. Đôi khi An cũng cố gắng xua đuổi và gạt bỏ những ý nghĩ vớ vẩn xấu xa này, vì chàng nghĩ rằng dù sao mình cũng đã có gia đình, và có vợ đẹp con ngoan.
Và Hoài, vợ An mặc dù đã trải qua một lần sinh nở, nhưng phải nói nàng sở hữu một thân hình rất đẹp. Có một vài lần khi hai vợ chồng nắm tay nhau dạo phố, An nhận thấy không ít các đấng mày râu, tuy rằng các đấng ấy đang đi bên cạnh người đẹp của mình, nhưng khi trông thấy Hoài, bước chân của họ hơi chựng lại một tí và mắt thì nhìn ngắm vợ mình đăm đắm, khiến cho đôi lúc An cũng cảm thấy bực tức và khó chịu. Con người ta dường như không ai thỏa mãn và bằng lòng với hiện tại và với những gì mình đang có…An cũng vậy. Tính tham lam và háo sắc đã làm mờ đôi mắt của chàng, đã làm cho chàng quên rằng mình tốt phúc vì được ông trời ban cho một người vợ tuyệt vời.
Riêng các cô làm cùng công ty với An, mặc dù các cô ấy biết vị trưởng phòng đã có vợ, có con. Tuy nhiên các cô vẫn thích khuấy đảo ông sếp của mình…Phải nói là An rất đẹp trai, lại nắm trong tay nhiều quyền hành, nên việc các cô bu bám chung quanh là chuyện đương nhiên. Lắm cô thích An vì tình cảm, thích được làm người tình của An, dù chỉ là người tình một đêm, nhưng cũng có cô lại muốn trao đổi cái ‘vốn tự có’ mà ông trời đã ban để mong tìm được một chút lợi lộc, một chỗ đứng xứng đáng trong công ty. Nhiều khi đã hết giờ làm việc, các cô còn tìm cách rủ rê An đi ăn tối, đi dạo chơi…Thậm chí có cô rất bạo dạn, tuy bề ngoài làm ra vẻ giả vờ cười cợt đùa bỡn, nhưng thật ra trong lòng lại ham muốn và cố gắng lôi kéo quyến rũ An, đôi lúc các cô ấy còn cố tình ôm chặt lấy An như thể chàng đã thuộc về mình, đã là vợ chồng của nhau rồi. An biết rõ ý đồ của các cô ấy, nhưng chàng làm như không quan tâm, mặc kệ họ muốn làm gì thì làm, An không chống đối cũng không hưởng ứng. Nói thì nói vậy chứ thằng đàn ông nào mà không thích đàn bà con gái nắm tay, đụng chạm và hôn hít.
Phần An, chàng lo sợ cũng đúng thôi, sợ vợ con ở nhà hay biết chuyện, sợ những người trong công ty lên tiếng chỉ trích, sợ bị mất chức vì chuyện quan hệ nam nữ bất chính. Đối với nhiều người đàn ông thì chuyện gì có thể thiếu, chứ nói đến chuyện tình cảm lăng nhăng ngoài luồng thì ít có ai tự cho là đủ. Bởi vậy xã hội này nó mới nảy sinh nhiều chuyện phức tạp…Nào là ‘chán cơm thèm phở’, nào là ‘ông ăn chả bà ăn nem’. Và cũng vì cái thời buổi bây giờ nó đưa vị thế của người phụ nữ lên cao, rồi đặt ra chuyện đòi hỏi bình đẳng, bình quyền, làm gì còn ‘xuất giá tòng phu’ như trước nữa. Do đó quyền hạn của người đàn ông, của người chồng vô tình bị đánh mất, bị hạ thấp, chỉ cần các bà ấy không vừa ý một chút thôi, thì người chồng liền bị kiện ra tổ dân phố, ra công an, lên tòa án…
Đối với An bây giờ, tuy có thích những thứ tình cảm ngoài luồng, thích tìm chút hơi lạ. Nhưng chàng phải cẩn trọng để những chuyện đó không xảy ra quá lộ liễu, dù gì đi nữa thì mình cũng là sếp của họ, và với cương vị của một người trưởng phòng, chàng không thể để những chuyện lăng nhăng vớ vẫn làm sút giảm vị thế của mình được. Tuy bên ngoài An làm ra vẻ hững hờ lạnh nhạt, nhưng con người đàn ông trong An lại có cái suy nghĩ khác...đâu có ai dại gì mà không thưởng thức những mối tình cho không biếu không ấy. Chỉ bấy nhiêu thôi, ý nghĩ lén lút vợ đi ngoại tình đã nhen nhúm trong lòng An và như ngày càng thôi thúc chàng mãnh liệt hơn…Tất cả chỉ còn là thời gian.
 
Bước chân về đến nhà, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt An, một hình ảnh quen thuộc mà xưa nay nó vẫn cho An cảm giác hạnh phúc và yên bình, đó là nhìn thấy vợ mình đang bế con chờ anh về. Nụ cười vẫn rạng rỡ trên môi đỏ thắm của Hoài, và đứa con gái bé bỏng ngây thơ với đôi mắt tròn xoe đen láy đang mỉm cười nhìn An. An không hôn lên tóc vợ và lên má con như trước giờ vẫn làm, chàng đi thẳng một mạch vào nhà. Hoài nhận thấy hôm nay An như có điều gì khiến anh không vui, và nét mặt thì có vẻ trầm tư, không hồ hởi với vợ con như những lần trước. Hoài chợt nghĩ hay là anh phải giải quyết quá nhiều công việc ở công ty, hoặc có ai đó làm dở dang kế hoạch của chồng.
 Hoài như ngày càng trẻ đẹp hơn sau khi sanh đứa con đầu lòng. Thật vậy, nhiều bạn nam đồng nghiệp trong công ty nơi Hoài làm, thường trầm trồ khen ngợi nàng, nhiều kẻ còn liếc trộm nàng với những ánh mắt vẻ như thèm muốn, lắm kẻ cũng thường tìm cách lân la để nói chuyện với Hoài, và chỉ cần nhìn thấy nàng cười, là họ tỏ ra thích thú và thỏa mãn lắm rồi…hèn gì mà thiên hạ không nói “gái một con trông mòn con mắt”. Nhưng những chuyện vớ vẫn trên đây, đâu có gì đáng để cho Hoài phải bận tâm. Hoài đang có một mái ấm gia đình luôn ngập tràn hạnh phúc, có người chồng lý tưởng và có một thiên thần bé nhỏ xinh xắn...Nàng còn thiếu gì nữa đâu mà phải khao khát những thứ bên ngoài. Đối với xã hội bây giờ, do đồng tiền rất dễ làm ra, kể cả việc một đứa bé mới lên ba lên năm cũng đã biết tiêu xài nó cho cục kẹo, cây kem. Vì thế người ta đã sử dụng đồng tiền, như một công cụ để mưu cầu danh lợi cho bản thân, và tệ hơn là nhiều kẻ còn dùng nó để mua chuộc, dụ dỗ những cô gái ngây thơ, hám tiền, bán đi cái cao quý của đời con gái. Đôi khi Hoài cũng bị những kẻ lắm chức nhiều tiền gạ gẫm này nọ, nhưng nàng vẫn lờ đi làm như là không hay biết gì cả.
Biết chồng mình vừa đi làm về mệt, nên Hoài cũng chưa hỏi vội. Bế con theo An vào trong nhà, Hoài với tay mở cánh cửa tủ lạnh ra, đưa cho chồng ly nước cam vắt mà nàng đã chuẩn bị sẵn và nói:
- Anh nghỉ ngơi và uống miếng nước cho khỏe rồi đi tắm.
Sau giờ cơm tối, hai vợ chồng ngồi xem ti vi. An thì chăm chú dán mắt vào các trò chơi truyền hình, lâu lâu lại thấy An cười to. Riêng Hoài thì tuy ngồi trước màn hình, nhưng nàng lại suy nghĩ miên man. An cũng nhận thấy hình như vợ mình không nói không cười như mọi ngày liền hỏi:
- Em không thích xem chương trình này hả? Để anh mở tiết mục khác nghe.
Nghe chồng hỏi Hoài hơi chột dạ, nhưng nàng cũng kịp trấn tỉnh lại. Mỉm cười nhìn An, Hoài nói:
- À em đang tính xem ngày mai mình sẽ ăn món gì để mừng năm năm chúng mình cưới nhau, anh quên rồi hả?
An cười to:
- Ồ vợ tôi chu đáo quá!
Thấy chồng vui vẻ Hoài mới nói:
- Hôm nay đi làm về em trông anh có vẻ buồn.
Sợ vợ đọc được những ý nghĩ thầm kín của mình, vì thực ra lúc này tuy đang ngồi bên vợ, nhưng thỉnh thoảng hình bóng của các cô ở công ty cứ lờn vờn trước mặt như ám ảnh chàng. An cố tình nói to như để khỏa lấp:  
- Đâu có gì, em cứ nghĩ ngợi nhiều chi cho mệt. Nhiều khi công việc ở công ty em quá bận rộn, quá mệt mỏi…Về đến nhà, ngay cả ông xã em đây, em cũng chả thèm nữa phải không?
Hoài dí tay vào trán chồng mắng yêu:
- Anh thì có mệt bở cả hơi tai, có chết đến đít cũng không thể nào quên được. Người đâu mà tham lam thế!
Hạnh phúc của đôi vợ chồng An và Hoài tưởng như được nhân lên, khi một hôm An vừa đi làm về tới nhà, Hoài đon đả chạy ra:
- Ôi anh yêu ơi, em vừa có một tin vui…
Cứ ngỡ rằng bà xã mình sắp được tăng lương hoặc được lên chức, An mỉm cười:
- Đâu nào? mau cho anh xem thử cái tin vui của em.
Hoài hí hửng khoe với chồng:
- Mình sắp có con rồi, hôm nay em đi khám và bác sĩ báo tin cho em biết.
An ôm vợ vào lòng và nói:
- Thế đứa bé là trai hay gái.
- Phải đợi thêm thời gian nữa mới biết rõ được anh à.

Cuộc sống của cái gia đình bé nhỏ này vẫn trôi qua trong êm đềm hạnh phúc. Tuy những chuyện lăng nhăng ở công ty có làm xáo trộn ít nhiều trong suy nghĩ của An, nhưng nó cũng chưa đến nỗi bùng phát mãnh liệt và chưa làm ảnh hưởng tới cái hạnh phúc đơn sơ của gia đình An. Ngày ngày An vẫn lái chiếc xe hơi chở Hoài tới công sở, và sau đó mới chạy vào công ty của mình. Lúc này bé Ngọc Hương, đứa con gái cũng đã lên ba, và hai vợ chồng An phải gởi nó ở nhà trẻ để không làm ảnh hưởng tới công việc.
 Cái thai trong bụng Hoài tính ra nay cũng đã được bốn tháng rồi. Một hôm, nhân ngày thứ bảy được nghỉ việc, Hoài nói:
- Hôm nay em muốn anh chở em đi khám thai trước đã, trên đường về chúng ta sẽ ghé vào siêu thị mua thêm ít đồ dùng, được không anh?
 An gật đầu cười và nói:
- Sau đó thì ghé quán bún bò Huế của cô Năm nữa chứ, đã lâu rồi mình chưa ăn phải không em?
Hoài giơ ngón tay và ngoéo với chồng:
- Ôkê, tuân lệnh trưởng phòng.
Cả hai vợ chồng cùng cười to.
Phòng khám thai những ngày cuối tuần rất đông các bà và các cô. Tuy thế Hoài không phải chờ đợi lâu, vì Loan là bác sĩ phụ trách ở phòng khám này, cùng là bạn học chung với Hoài và An, nhưng sau đó cô ấy theo đuổi chuyên nghành bác sĩ sản khoa.
Đánh xe vào lề đường và đậu dưới tán cây sao, An ngồi hút thuốc và chờ đợi. Cuối cùng Hoài cũng bước ra khỏi phòng khám, trông thấy đôi mắt của vợ hơi đỏ và ngân ngấn nước mắt. An không hiểu đã có chuyện gì xảy ra với vợ mình. Cảm thấy lo lắng An gặng hỏi vợ, và chàng phải hỏi đến bốn năm lần thì Hoài mới chịu lên tiếng. Hoài vừa sụt sùi khóc vừa nói:
- Sau khi siêu âm thì mới phát hiện đứa con trai của mình bị hội chứng bàn chân vẹo.
An nghe thấy vợ nói xong thì lòng buồn rười rượi, chẳng nói chẳng rằng, chàng lên xe đóng cửa và chạy một mạch về nhà. An không đưa vợ đi mua sắm như những lần nghỉ việc trước. Trái với những gì mà chỉ ít phút trước đây, hai vợ chồng đã vui cười thỏa thuận. Thái độ của An khiến Hoài ngạc nhiên, nàng buồn bã nhìn An:
- Anh sao thế? Điều gì đã khiến anh đối xử với em như vậy?
Thấy An tỏ vẻ bực bội và im lặng. Hoài lên tiếng:
- Chuyện xảy ra đối với con mình, kể cả anh và em không ai muốn vậy. Hơn nữa đây chỉ là kết quả thăm dò, thời gian còn dài mà anh. Em hy vọng mọi chuyện sẽ khác đi.
Những ngày sau đó Hoài thấy chồng mình bỗng trở nên ít nói ít cười, đi làm về là vào phòng đóng cửa lại và người thì lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Hoài định bụng sẽ gặp An để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra, Hoài không nghĩ là vì đứa con bị tật bẩm sinh mà An lại thay đổi nhanh chóng như vậy….Hay là chồng mình đã dan díu với ai đó, để rồi về đến nhà là hằn học và ruồng rẫy vợ con?
Một sáng chủ nhật, Hoài đang ngồi chơi với bé Ngọc Hương thì Loan tìm tới:
- Chào bạn, bạn khỏe không? Hôm nay ít khách mình để phòng khám cho ông xã trông coi, tranh thủ ghé qua thăm bạn chút xíu.
- Cám ơn Loan mình vẫn vậy, tuy có hơi buồn chuyện vừa qua một chút.
- Vậy Hoài có tính giải quyết cái thai ấy không mình sẽ giúp cho.
Nghe Loan nói Hoài bỗng nổi cơn thịnh nộ. Nàng quát to lên:
- Này Loan à, Loan có còn là bạn của mình nữa không? Và Loan có còn là con người nữa không? Tại sao Loan không tìm cách giúp mình để khắc phục tình trạng của cháu bé? À thì ra hôm nay bạn đến thăm mình chỉ để dạy cho mình biết cách giết bỏ con mình phải không? Lương tâm của bạn để đâu rồi? Y đức mà trường y đã dạy cho bạn như vậy hả?
Từ trong nhà nghe tiếng vợ mình quát tháo, An vội bước ra xem có chuyện gì. Trông thấy chồng, Hoài lẵng lặng đi vào nhà, nét mặt nàng hầm hầm quên cả chào người bạn học cùng lớp.
Gặp Loan, An hỏi dò mới biết được đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra giữa hai người. Chàng xin lỗi và tìm cách giải bày với Loan:
- Thế việc của cháu bé không còn cách khắc phục hả Loan? Mình nghĩ rằng khoa học bây giờ tiên tiến hiện đại sẽ có cách chữa trị cho cháu chứ.
Nghe An hỏi, Loan chỉ biết lắc đầu:
- Mình cũng nghiên cứu nhiều cách để giúp hai bạn sau khi biết tình trạng của cháu bé. Nhưng thú thật với An là hết hy vọng rồi.
- Thế bây giờ theo bạn mình phải làm gì?
Loan nói nhỏ như sợ Hoài nghe thấy:
- Thì chỉ còn cách phá bỏ thôi, nếu để lại, chỉ sợ mai mốt sanh ra cháu nó sẽ khổ…

Lúc này bầu khí trong gia đình rất căng thẳng, An và Hoài gần như tránh né không muốn gặp mặt nhau. Cha mẹ anh em và thân tộc bên gia đình An biết chuyện cất công khuyên bảo và dàn xếp, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì cả.
 Và rồi cũng đến lúc hai vợ chồng phải ngồi đối diện với nhau để bày tỏ mọi chuyện. An cho biết là chàng không muốn Hoài để lại đứa con này, chàng muốn Hoài phải dứt bỏ nó khi còn có thể được. Hoài nghe chồng nói thì rụng rời tay chân, từ trước đến giờ Hoài vẫn nghĩ rằng An là một con người hiền lành, có tấm lòng bao dung. Nhưng qua sự việc này thì Hoài đã thấy rõ hơn về con người của chồng mình…
- Nếu anh có bỏ tôi thì tôi chịu, ngoài ra nếu anh có ý định bắt tôi phải giết bỏ đứa con này, chuyện đó tôi phải nói thật với anh rằng, sẽ không bao giờ xảy ra. Sao anh nỡ lòng nào đối xử với con của mình như vậy? Nó còn bé bỏng, ngây thơ, đâu có làm gì nên tội…Dù sao nó cũng là giọt máu của anh mà.
Như chưa hả cơn tức giận, Hoài tiếp tục trút lên đầu An:
- Ngay cả bố của anh cũng vậy…đến đứa cháu của mình mà cũng đòi phải giết bỏ nó. Đáng lẽ ra, nó đã gánh lấy nỗi bất hạnh thay cho mọi người trong gia đình, thì nó phải được đáng thương hơn nhiều người khác chứ. Vô phúc cho nó khi có những người làm ông làm bà như vậy.
Hoài nói tới đây thì An cảm thấy bố mẹ mình bị xúc phạm. Không thể chịu đựng được nữa, chàng giơ tay tát mạnh vào mặt Hoài:
- Mày im lặng ngay, tao không muốn mày lên mặt dạy đời và sỉ nhục bố mẹ tao.
Hoài vẫn chưa chịu thua:
- Tôi không dám dạy ai cả, tôi chỉ lên án hành vi muốn giết người của các người thôi.
An vẫn khăng khăng với lý do của mình:
- Bố mẹ tôi không muốn nhìn thấy đứa cháu đích tôn què quặt như vậy.
Hoài vẫn không chịu thua An:
- Nếu nói như thế thì tôi hỏi anh: anh sống với bố mẹ anh hay là với vợ con anh? Trả lời tôi đi…

Cuối cùng thì cái hạnh phúc của gia đình bé nhỏ này cũng tan vỡ, cầm trên tay tờ giấy ly dị, Hoài đưa bé Ngọc Hương về căn nhà trọ vừa thuê ở cuối xóm. Nhà cha mẹ khi chết để lại, nàng vẫn đóng cửa im ỉm. Hoài chưa muốn dọn về ở, vì nàng sợ những nỗi u buồn đau đớn sẽ dằn vặt nàng khi ngày ngày phải chứng kiến di ảnh của phụ mẫu trên bàn thờ. Bụng mang dạ chữa nhưng Hoài vẫn phải đi làm để nuôi con, trời thương bé Ngọc Hương cũng chóng lớn, khỏe mạnh và ngoan ngoãn.
Trải qua bao tháng ngày cưu mang nặng nhọc và phải chịu biết bao đau khổ. Hoài vẫn nuôi chút hy vọng khi đứa bé chào đời, sẽ có một phép mầu làm thay đổi tất cả, và con mình sẽ được hoàn hảo.
Chín tháng mười ngày cưu mang rồi cũng qua đi, đã đến ngày khai hoa nở nhụy, khác với những gì người đời thường nói: ‘đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình’. Hoài phải vượt cạn trong cô đơn, buồn tủi…
- Cô đơn vì bên cạnh không có lấy bóng dáng một người thân!
- Buồn tủi vì người cùng tay ấp đầu gối, người đã từng thề non hẹn biển với nàng, lại đang tâm hất hủi và bỏ rơi nàng ngay trong lúc này!
Ôm đứa con trai kháu khỉnh trong lòng, Hoài cảm thấy hạnh phúc của tình mẫu tử dâng tràn. Ngoài ra, nàng cũng quá sung sướng và tự hào, khi dám đối diện với những việc mà người khác cho là ngu xuẩn, là dại khờ. Hơn thế nữa, nàng đã can đảm chống lại tất cả mọi chuyện xấu xa, gian ác, cho dù nàng biết trước những việc đó sẽ để lại những đau đớn, mất mát và phải hy sinh ngay cả hạnh phúc riêng tư của mình. Hoài chấp nhận tất cả chỉ với một mục đích duy nhất, là bảo vệ sự sống cho đứa con ruột thịt yêu dấu.  
Mấy ai hiểu được tâm trạng và nỗi khổ mà Hoài phải đương đầu, vì mọi chuyện xảy ra quá đỗi bất ngờ. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu nàng…
- Tại sao An lại có những hành động như vậy?
- Tại sao An và những người trong họ nhà An không dám đón nhận đứa bé? Họ sẳn sàng từ chối ngay chính giọt máu ruột thịt của mình? Họ thật đúng là những kẻ vô ơn bội bạc với Đấng Tạo Hóa – Chính Người là Đấng đã trao ban cho họ niềm hạnh phúc lớn lao qua những đứa con.
Buồn người lại nghĩ phận mình, trông thấy con phải chào đời trong tình cảnh nghiệt ngã này, Hoài ôm con mà hai hàng nước mắt chảy dài. Liếc mắt nhìn sang giường bên cạnh thấy các sản phụ kia, ngoài những người thân trong gia đình tới lui thăm hỏi, chúc mừng…luôn luôn có sự hiện diện của các đấng ông chồng bên cạnh chăm nom chu đáo tận tình. Riêng Hoài, vì nàng là đứa con gái duy nhất, chẳng may cha mẹ lại mất sớm và bà con thân tộc cũng không có, nên giờ đây đành phải chịu cảnh cô đơn, thiệt thòi vậy thôi.
Một sản phụ nằm gần giường Hoài cũng sanh được một cháu trai, thằng bé mập mạp hồng hào dễ thương, mỗi tội thằng bé lại bị sứt môi. Nhưng điều khiến Hoài băn khoăn và suy nghĩ là tại sao thằng bé cũng bị khiếm khuyết, không được hoàn toàn như những đứa trẻ khác, thế mà nó vẫn được mọi người thân trong gia đình bế bồng ôm ấp. Nhìn ánh mắt của họ thật hoan hỉ và chứa chan hạnh phúc, bấy nhiêu đó đủ để giải tỏa những gì đang chất chứa trong lòng Hoài.
Thằng bé trở mình và khóc đòi bú, Hoài bế nó lên. Trông thấy con xinh đẹp, mũm mĩm, Hoài cảm thấy an lòng và thỏa mãn với cái hạnh phúc bé nhỏ của mình, Nhìn thấy chân thằng bé bị dị tật, không được bình thường như những đứa trẻ khác, nhưng đó đâu phải là tai họa, là chuyện gì quá ghê gớm, để đến nỗi người ta lại sẳn sàng giết bỏ những phận người kém may mắn như thế! Tạo Hóa đã dựng nên con người với nhiều cảnh đời khác nhau, nhưng có một điều chắc chắn rằng, Ngài không bỏ rơi và quên lãng ai bao giờ.
Nhớ lại những ngày còn bé ở với cha mẹ, thỉnh thoảng Hoài đi ra vườn với bố, nhìn thấy những con gà, con vịt, nàng chẳng hiểu lý do vì sao khi nở ra chúng chỉ có một chân. Trông thấy người, chúng hoảng sợ vội nhảy lò cò bỏ chạy. Nhìn những con vật bị tàn tật ấy, Hoài thấy tội nghiệp và lấy làm xót xa cho chúng. Nàng cố gắng đuổi bắt và nâng niu chúng trên bàn tay mình, sau đó đút mớm thức ăn cho chúng. Tuy chúng chỉ là những con vật, nhưng thấy như thế ai mà không thương cảm…Huống chi con của nàng, nó là một con người.

Gánh nặng ngày càng tăng khi có thêm sự xuất hiện của Hùng. Hùng là tên của đứa con trai mà Hoài đã đặt. Thương con, Hoài chỉ biết cầu xin Ơn Trên, ban cho mình có đủ sức khỏe và nghị lực để nuôi dạy hai con. Đôi lúc quá mệt mỏi, Hoài như người say rượu liêu xiêu chỉ chực té ngã. Nhiều lần bé Ngọc Hương trông thấy mẹ như thế, liền vội chạy lại và ôm chầm lấy mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ bị làm sao vậy? người mẹ sao nóng thế này? Mẹ mau lên giường nghỉ đi.
Sợ con lo lắng nhiều, Hoài bước lại giường và nằm xuống, đầu óc nàng vẫn còn quay cuồng.
Bé Ngọc Hương vẫn chưa rời mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ đợi con một chút, con đi pha nước chanh cho mẹ uống nhé.
- Mẹ cám ơn con.
Nhìn con bé, Hoài thấy tội nghiệp cho nó, mới tí tuổi đầu đã biết lo lắng cho mẹ.
Rồi ngày lại ngày qua, hàng xóm thấy trong căn nhà trọ nhỏ bé tồi tàn, không ngớt vang lên tiếng cười đùa của ba mẹ con. Thấy Hoài sống hiền lành, ăn nói dịu dàng và đối xử tốt với lối xóm, nên mọi người đều cảm mến nàng. Thỉnh thoảng họ lại mang qua cho ba mẹ con khi thì tô cháo gà, lúc thì bát chè đậu xanh mát lạnh. Không thể nhận những gì mà họ đem cho mãi, vì chỉ sợ mình sẽ không có điều kiện để báo đáp lại. Hoài cám ơn họ, và ngỏ ý không muốn nhận bất cứ thứ gì nữa, nhưng khi hiểu được ý của Hoài, mọi người tỏ ra buồn rầu và cho rằng Hoài sống không mặn mà với họ. Hoàn cảnh của ba mẹ con Hoài lúc này, hầu như mọi người trong khu xóm đều đã hiểu biết, nên họ rất thương cảm. Riêng Hoài đôi khi thấy họ quá nhiệt tình với mình, nên dù muốn hay không nàng vẫn phải nhận lấy cho họ vui vẻ, vừa lòng. Điều an ủi đối với Hoài trong lúc này là những người ở nhà trọ, những người cùng chung cảnh ngộ với Hoài, lại là những người biết yêu thương và san sẻ cho nhau nhiều nhất. Chuyện này rất khó xảy đến với một xã hội đang ngày càng vô cảm, luôn phân biệt giàu nghèo và chia rẽ giai cấp…

Cuộc đời này luôn luôn có những đổi thay, đâu phải lúc nào cũng rực rỡ ánh bình minh tươi hồng và trời yên biển lặng như mọi người vẫn lầm tưởng. Cuộc sống thường đem lại những trái ngang, những rủi ro và đau khổ. Và với Hoài cũng vậy, nàng không thể né tránh được những gì mà đã là con người thì dù ít dù nhiều, ai ai cũng phải trải qua, phải gánh chịu. Và đúng như người ta vẫn thường nói ‘sống ở trên đời, nào có mấy ai học được chữ ngờ’. Với Hoài, quả là Hoài không ngờ những điều mà mình không bao giờ dám nghĩ tới, nó lại xảy đến với mình. Không chấp nhận cũng phải chấp nhận và càng không thể nào buông xuôi được; khi mà tình yêu và sự hy sinh Hoài dành cho những đứa con, vượt lên trên những sự đau khổ cùng cực ấy. Một lần nữa, số phận đã không mỉm cười với Hoài và điều bất hạnh lớn lao nhất lại xảy đến cho cuộc đời nàng…
 Vào một buổi chiều, khi ánh hoàng hôn dần tắt, tiếng còi tan tầm vang lên, Hoài vội băng qua đường để về vì phải lo cơm nước cho các con. Sau tiếng rít kéo dài của thắng xe cùng với những tiếng va đập loảng xoảng trên đường, Hoài thấy mình như bị hất tung lên và sau đó thì bị quật mạnh xuống đất. Hoài thấy trời đất quay cuồng đảo lộn, nàng cố gắng ngồi lên nhưng không được, toàn thân đau buốt ê ẩm. Hoài nằm gục mặt xuống.
- Trời ơi! Có người bị tai nạn kìa. Máu ra nhiều quá bà con ơi!
Những người đi đường thấy vậy la hét toáng lên và chạy vội đến. Sau đó họ hè nhau vực Hoài lên và đưa vào bệnh viện cấp cứu. Trước khi bị rơi vào trạng thái hôn mê, Hoài cũng kịp đưa cho mọi người mảnh giấy dính đầy những máu, và trên đó người ta nhận thấy có ghi vài dòng chữ nguệch ngoạc: xin hãy cứu giúp các con tôi… cùng với địa chỉ của nhà trọ. Và sau đó thì Hoài không còn biết gì nữa.
Tỉnh lại trong bệnh viện sau một thời gian dài mê man. Hoài muốn trở mình cũng không thể được vì toàn thân ê ẩm. Nàng thấy cổ họng mình khô đắng, muốn tìm xem có ai đó ở quanh mình để xin tí nước, nhưng chẳng thấy có ai. Bỗng vết thương ở chân Hoài đau nhói, không thể chịu đựng được, Hoài kêu lên. Nghe tiếng Hoài, một cô y tá vội chạy đến cạnh bên và nói với Hoài:
- Chị cố gắng chịu đau và nằm yên nhé. Vết thương đang rỉ máu.
Nén cơn đau, Hoài đưa mắt nhìn xuống. Bất chợt mọi người trong phòng cấp cứu nghe nàng hét lên:
- Chân của tôi…Trời ơi! Chân của tôi đâu rồi?
Sau đó Hoài ôm mặt khóc to, vì nàng không thể nào tin được những sự việc như thế lại xảy đến với mình… Một bên chân của nàng đã bị cắt bỏ tới đầu gối, Hoài như muốn gục ngã trước một sự thật quá phũ phàng! Và thế là từ giờ trở đi; với một chân còn lại, làm sao mà nàng nuôi nổi các con được?
Sau đó Hoài tìm gặp các bác sỹ đã điều trị cho mình:
- Thế chân của tôi bị như thế nào mà phải cắt bỏ thưa bác sỹ?
- Vì chân của cô bị bánh xe cán qua dập nát, chúng tôi cũng tìm cách khắc phục nhưng không thể được đành phải cắt bỏ, xin chia buồn cùng cô.
Hoài nghe bác sỹ nói xong thì ngồi bệt xuống đất và ôm mặt khóc. Vị bác sỹ thấy thế cũng động lòng:
- Những người thân của cô đâu cả rồi? Sao tôi chẳng thấy có ai cả?
Hoài kể hết mọi chuyện đã xảy ra cho vị bác sỹ. Nghe biết chuyện ông ấy rất cảm động. Lúc này Hoài đã ngừng khóc, nàng ngước nhìn vị bác sỹ và nói:
- Bản thân tôi thì cho dù có bị làm sao tôi cũng chịu đựng được, nhưng còn các con của tôi…tội nghiệp chúng nó. Chúng còn quá bé để có thể hiểu hết mọi chuyện đang xảy ra cho gia đình, cho người mẹ của chúng.
Vị bác sỹ nói với Hoài:
- Thế bây giờ cô có cần tôi báo tin cho anh ấy biết không?
 Nghe vị bác sỹ hỏi, đôi mắt Hoài nhìn về xa xăm buồn bã:
- Vợ chồng tôi đã ly hôn rồi, và bây giờ thì bố của lũ trẻ đang vui vầy với hạnh phúc mới rồi. Cám ơn ông đã có ý tốt.
Hoài và vị bác sĩ đang nói chuyện thì trong thấy cô y tá bước lại gần, hai tay cô ấy dẫn theo hai đứa nhỏ. Không ai nói ra nhưng mọi người nằm cùng phòng đều biết rõ đó là hai đứa con của Hoài, khi thấy chúng nó ôm mẹ và khóc:
- Mẹ ơi! Chân của mẹ đâu rồi?
Vị bác sĩ đứng đó không cầm nỗi nước mắt khi nghe bé Ngọc Hương chạy lại gần và nắm tay ông vừa lay vừa khóc:
- Sao ông lại cắt bỏ chân của mẹ chúng cháu hả? Mai mốt đây mẹ đâu còn đi làm để nuôi hai chị em cháu được nữa!
Về phần công ty nơi Hoài đang làm, sau khi biết Hoài bị tai nạn, cũng đã tính tới chuyện cho nàng nghỉ việc, vì với một chân còn lại rất khó để Hoài tiếp tục công việc. Hết nỗi đau này tới nỗi đau khác chồng chất lên đôi vai của người thiếu phụ trẻ!
Rời khỏi bệnh viện với thân hình tàn tạ, phía trước mặt Hoài bây giờ là cả một bầu trời u ám. Số tiền dành dụm và chia chác sau ly hôn đã đổ vào vụ tai nạn gần hết rồi. Chiếc xe gây ra tai nạn cho nàng đã trốn tránh trách nhiệm.
Vết thương ở chân tuy vẫn đang rỉ máu, tiền bạc đã hết sạch và các con thì chưa có gì để ăn. Không biết phải làm gì bây giờ… Hoài cố nén nỗi đau và ngày ngày ngồi trên chiếc xe lăn đi khắp hang cùng ngõ hẻm, ngửa tay xin từng đồng tiền lẻ của thiên hạ để lo cho các con. Bé Hương thì vẫn được một số người tốt bụng trợ giúp học phí, riêng thằng Hùng nó còn bé quá chưa đến tuổi đi học, và không thể để nó ở nhà hoặc gởi cho ai được, nên buộc Hoài phải cho con đi theo mình.

- Mẹ ơi con đói quá!
Nghe con trai nói, Hoài lăn bánh cho chiếc xe vào quán ăn cạnh đấy. Chưa kịp gọi thức ăn cho con, thì Hoài đã thấy thằng Hùng chân cao chân thấp bước lại cái bàn đằng kia, nơi có một đôi nam nữ đang ngồi.
- Bác ơi, cho con ít tiền mua cơm ăn. Con đói lắm
Thấy con mình đứng năn nỉ xin, nhưng đôi nam nữ kia vẫn yên lặng. Hoài đang tính gọi con. Nhưng nàng chưa kịp mở miệng thì bỗng nghe đánh bốp một cái, và sau đó là tiếng khóc của con. Hoài quay vội xe lại, nhìn thấy con mình vừa lồm cồm ngồi lên vừa quệt nước mắt.
- Mẹ ơi, mấy người này đánh con.
Thấy con khóc Hoài cũng khóc theo, nàng nói trong uất nghẹn:
- Nó bị tàn tật các người không cho nó thì thôi, cớ sao lại đánh nó?!
Sau câu trách mắng của Hoài, người đàn ông kia đeo đôi kính đen vào và liếc nhìn hai mẹ con Hoài, rồi đứng lên dìu tay người phụ nữ kia và rời khỏi quán. Vừa căm tức lũ người keo kiệt và ác độc, vừa thương xót cho đứa con tàn tật. Hoài ngước lên với ánh mắt căm hờn dõi theo cái hạng người bất nhân ấy. Hoài giật mình khi chợt thấy người đàn ông vừa đánh thằng Hùng, có thân hình và dáng dấp giống hệt An. Và nàng càng bàng hoàng hơn khi nhận ra họ cùng leo lên chiếc xe hơi, mà trước đây hai vợ chồng Hoài đã sắm. Hoài không còn nghi ngờ gì nữa, người đàn ông kia chính là An chứ không ai khác. Sở dĩ Hoài không nhận ra An, vì lúc đó chàng ta và người đàn bà kia ngồi quay lưng với Hoài. Phần An, không lẽ chàng ta cũng không nhận ra mình sao? Hoài nhớ lại là trước khi rời khỏi quán An có quay lại nhìn hai mẹ con Hoài mà. Hay là vì mình bị cụt mất một chân nên chàng không nhận ra được; hoặc chàng cố tình giả vờ như không quen biết. Và cho dù có nhận ra Hoài hay không, thì việc đó bây giờ đối với Hoài đâu có gì là quan trọng nữa… Điều quan trọng mà Hoài muốn nói tới đó là: Với An, một con người có học thức mà lại có kiểu hành xử không mấy tốt đẹp và có thái độ khinh chê người nghèo, trong khi với thằng Hùng, nó chỉ là một đứa bé tàn tật và đang bị đói khát. Và trong cuộc sống, dù cho thằng Hùng không phải là con của mình đi nữa… thì đạo lý làm người cũng không thể chấp nhận việc ra tay hành hạ người khác như thế.
Ông bà chủ quán biết chuyện cũng bước lại gần hai mẹ con và nói:
- Tui thấy thằng bé làm đổ ly cà phê sữa của cô kia, người đàn ông đi cùng bực mình đánh nó.
Thằng Hùng nghe xong bèn nói:
- Con thấy họ ăn xong rồi, và còn sót lại một miếng bánh trên đĩa. Con giơ tay với lấy vô tình đụng phải ly cà phê.
Hoài nhìn con và nói:
- Vậy con có xin lỗi họ không?
- Dạ có mẹ ạ.
Thấy con mình vì bị đói quá, nên không kiềm chế được hành vi vừa qua. Hoài nhắc nhở con:
 - Mẹ đâu có để con phải đói đâu! Chẳng qua là mẹ đã gọi thức ăn rồi, nhưng chủ quán chưa mang ra kịp thôi mà.
Thằng Hùng ra vẻ hãy còn tiêng tiếc:
- Nhưng mẹ ơi, con thấy họ bỏ miếng bánh đi thì uổng phí quá, trong khi có nhiều người, chẳng hạn như con với mẹ còn không có để mà ăn.
Hoài xoa đầu con nói tiếp:
- Con biết trân quí những gì ông trời ban cho con người là tốt. Nhưng thôi bây giờ không nhắc tới chuyện đó nữa, mẹ con mình ăn trưa đã phải không, mẹ cũng thấy đói lắm rồi.
Phần ông bà chủ quán, sau khi đã nghe biết được câu chuyện vừa xảy ra với hai mẹ con cũng lắc đầu ngán ngẫm:
- Nó còn nhỏ mà đã biết nhận lỗi, thế mà họ vẫn không tha!
Hai ông bà ấy còn nói thêm:
- Ly cà phê không đáng bao nhiêu tiền, cái đáng để trách móc là hành động của những người lớn, những người đáng bậc tuổi cha chú của cháu, mà lại đối xử quá tệ, còn thua cả một đứa con nít. Tôi không nghĩ là họ lại làm như vậy với thằng bé, nếu biết thì tôi đã đền cho họ ly cà phê khác rồi.
Biết vợ chồng người chủ quán rất tốt với mình, Hoài cảm động và nhìn họ với ánh mắt biết ơn.
Cảm thương tình cảnh của hai mẹ con Hoài, bà chủ quán đi vào trong, và giây lát sau bà trở ra trên tay cầm mấy hộp cơm. Bà với lấy cái ghế cho thằng Hùng ngồi rồi nói:
 - Thôi cũng đã quá trưa rồi, hai mẹ con ăn cơm đi kẻo muộn, tôi thấy thằng bé đói lả người rồi kia kìa.
 Hoài móc tiền ra trả nhưng bà chủ quán gạt tay nàng và bảo:
- Có đáng gì đâu, thôi hai mẹ con ăn đi, cơm nguội hết rồi.
Hoài cám ơn họ rối rít. Thằng Hùng vừa ăn vừa khen ngon, bà chủ quán thấy vậy liền nói:
- Thằng ranh con này khéo nịnh, khôn vừa vừa để cho thiên hạ khôn với chứ. Thế có tới đây ở với ông bà không?
Hùng vừa nhai vừa trả lời:
- Dạ…cũng được nhưng cũng không.
Bà chủ quán lấy làm lạ chưa kịp hỏi lại thì đã nghe nó trả lời:
- Cũng được, vì có cơm ăn ngon, nhưng cũng không thể được, vì con đang còn mẹ. Vắng con mẹ sẽ buồn lắm.
Bà chủ quán thấy vậy ký nhẹ vào đầu nó:
- Ồ cái thứ con trai lớn rồi mà tối ngày cứ rúc vào mẹ, không sợ người ta cười cho à.
Thằng Hùng nghe xong nhe miệng cười, để lộ hai hàm răng cái còn cái mất.

Lại nói về An, sau khi đã bỏ rơi mẹ con Hoài, thỉnh thoảng Hoài thấy chàng ta tay trong tay đi với người khác, mãi sau này Hoài mới biết đó là cô Lý, người cùng làm chung công ty với An. Trước đây lẽ ra đám cưới cô Lý cũng trùng một ngày với đám cưới của Hoài và An, nhưng rồi đợi mãi chả thấy động tĩnh gì, thời gian sau Hoài nghe thiên hạ kháo nhau là do bố mẹ cô Lý thách cưới quá cao, nên anh chàng kiểm lâm kia đành phải chào thua, và thế là đám cưới của họ bị hủy bỏ. Cuộc hôn nhân không thành, chán nản cô ta xin vào làm thư ký trong công ty. Không biết thời gian làm việc trong công ty, họ đã có tình ý gì với nhau hay chưa… Chỉ biết rõ là ngay sau khi chuyện gia đình của Hoài và An bị đổ vỡ, người ta thấy cô Lý và An bắt đầu có quan hệ lén lút với nhau. Và cũng vì mối tình bất chính này được đồn đại khắp cả công ty, nên sau đó họ đã bị công ty cho nghỉ việc.
Bước chân ra ngoài xã hội, mới thấy trăm ngàn thứ khó khăn đang chờ đón họ, cuộc đời này đâu phải lúc nào cũng trải thảm cho ta bước đi. Thiên hạ giành giật nhau từng miếng ăn, từng đồng xu lẻ. Xưa nay An và Lý chỉ quen với việc ngồi trong văn phòng được gắn điều hòa, viết lách thì đã có máy móc hỗ trợ…nên để thích nghi với cuộc sống mới bây giờ, thật không đơn giản chút nào đối với họ.
 Về phần Lý thì sau khi bị nghỉ việc, không biết phải xoay sở nghề gì để sống, cô ta theo người chị lên Sài Gòn phụ bán bánh cuốn.
Còn An sẵn có chút vốn liếng dành dụm sau nhiều năm làm việc ở công ty, và được phân chia sau khi ly hôn với Hoài. Chàng ta mua ngay một chiếc xe tải nhỏ để chở hàng thuê kiếm sống.
Chân ướt chân ráo tập tễnh bước vào nghề, An phải cố tìm lấy cho mình một số khách hàng, và tuy phải chấp nhận khung tiền chuyên chở ban đầu với giá rẻ mạt, nhưng An đành nhắm mắt làm liều, thôi thì ‘thả con săn sắt bắt con cá rô’. Âu đó cũng là một trong những cách để An thu hút cho mình được một số mối lái.

Vào một buổi chiều cuối tuần, đang lang thang trên hè phố tìm mua cho mình vài thứ đồ dùng cần thiết. Bất chợt An gặp thấy Lý, cô ấy cùng với một người phụ nữ khác đi trước mặt An. An cất tiếng gọi:
- Lý ơi, chờ anh với.
Lý giật mình quay lại và nhận ra An, cô ấy mỉm cười:
- Ôi chao! Trời lạnh thế này mà anh đi phố có một mình à?
- Thế không đi một mình thì đi với ai?
Lý cười trêu An:
- Sao không gọi điện cho em?
- Ai biết được em rãnh hay không mà gọi.
Sau vài câu thăm hỏi, An mời hai người vào quán uống nước. Quay sang người phụ nữ đi cùng Lý, An hỏi:
- Còn chị đây là gì với em?
- À đây là chị Tâm, Chị ruột của em đó, anh không thấy hai chị em tôi giống nhau à. Anh còn không mau chào bà chị đi.
Lúc này An mới nhìn thật kỹ và nhận ra là hai chị em họ giống nhau thật. An tỏ ra lịch sự.
- Xin lỗi bà chị nghe, em út không biết nên thất lễ. Từ trước giờ em đâu có nghe Lý nói gì về chị
Chị Tâm mỉm cười:
- Ồ không sao. Thế hai người đã quen biết nhau rồi à?
Lý vội nói chen vào:
- Chúng em cũng quen nhau tình cờ…trên mạng thôi mà.
Lý chỉ sợ rằng An vô tình, lỡ miệng nói ra câu chuyện của hai đứa thì hỏng hết, nên cô ấy vội chen vào cướp lời của An, và Lý thấy nhẹ nhõm người khi nghe chị Tâm nói:
- Đã không quen thì thôi, quen biết rồi thì chị mời tối ghé nhà chị ăn bún riêu nghe.
Bởi từ hôm thôi việc ở công ty, hai người cũng ít gặp mặt nhau. Nay sẵn dịp được chị Tâm mời ăn bún, nên An cũng muốn tranh thủ cơ hội này để hâm nóng lại mối tình qua đường với Lý.
Biết Lý thường đi bán bánh cuốn ở Sài Gòn cùng với chị Tâm, An tìm cách lôi kéo chị ấy:
- Xe của em cũng thường chở mấy bà đi buôn bán ở Sài Gòn, nếu không ngại, em mời chị qua xe của em đi cho vui, chị thấy thế nào…được chứ?
Chị Tâm mỉm cười:
- Cám ơn em, để chị xem sao đã.
 Và nhờ có sự thôi thúc của Lý, nên chỉ ít ngày sau, người ta thấy có thêm vài người hành khách mới trên xe của An, đó là Lý và chị Tâm. Lấy cớ hay bị say xe nên Lý xin được ngồi trên ca-bin với An. Ngày ngày phải vượt qua quãng đường dài hơn năm chục cây số, lại phải đi từ rất sớm khi gà vừa gáy canh tư. Một nam, một nữ ngồi sát bên nhau trên một hành trình dài trong đêm thanh vắng, việc trêu đùa và bá vai bá cổ nhau là chuyện bình thường, và còn những chuyện gì xảy ra sau đó thì chỉ có trời mới biết.
Hôm nay chị Tâm bị ốm, do đó chị ấy không thể đi bán hàng được, vậy là chỉ còn lại mỗi một mình Lý. Dịp may hiếm có đã đến, lấy cớ xe bị hư, An tìm kiếm xe khác và chuyển hết số hàng cùng hành khách qua để họ tiếp tục đi. Riêng Lý thì An giữ cô ta ở lại:
- Em chờ anh sửa xe rồi đi sau nhé.
Không nói thì Lý cũng đã nghi ngờ ý định của An rồi:
- Xe hư…hay là anh…hư?
An nhìn Lý và nheo mắt:
- Anh…hư.
Trời bên ngoài vẫn còn tối đen, lại thêm những cơn gió đông thổi về. Chiếc áo mỏng mặc trên người không đủ ấm để Lý thoát khỏi cái lạnh, nàng co rúm người lại và leo lên ca-bin. Chỉ chờ có thế An cũng vội lên theo. Ngồi ở ghế bên kia, An quan sát hết mọi cử chỉ của Lý, chàng ta cũng giả vờ run rẩy và đột nhiên An choàng tay qua người Lý và ôm chặt lấy cô ấy. Những làn hơi thở dồn dập và nóng bỏng, đã làm cho hai người quên đi cái giá lạnh ban mai, họ chìm đắm trong nhau và mọi chuyện chỉ kết thúc khi Lý nhìn đồng hồ:
- Thôi muộn quá rồi anh ơi, em phải đi bán bánh; kẻo không về lại bị chị Tâm mắng.
An cười trấn an Lý:
- Lo gì, hôm nay anh bao hết số hàng của em.
An nói xong, hai cơ thể lại tiếp tục quấn chặt lấy nhau như không thể dứt ra được. Một bác tài xế nọ có quen biết An, và hai xe cùng chạy một tuyến đường. Trông thấy xe của An, cứ ngỡ là xe bị hư ông ấy bèn dừng lại, hy vọng rằng nếu An cần gì thì sẽ giúp đỡ. Ghé mắt sát vào tấm kiếng cửa xe tìm An, ông ấy chợt giật mình khi bắt gặp An và Lý, đang làm cái chuyện tục tỉu trắng trợn và lộ liễu dưới ánh sáng lờ mờ của bóng đèn trong buồng lái. Ông ta vừa cười vừa lắc đầu:
- Xe hư đâu chẳng thấy chỉ thấy mấy thằng tài xế hư, thiệt tình. Tội nghiệp mấy bà vợ ở nhà cứ tưởng là chồng mình đi làm ăn đàng hoàng.
Sống ở trên đời, người ta cũng lắm mưu nhiều kế. Bởi thế cho nên mới có chuyện để nói…Việc chiếc xe có bị hỏng hóc hay không thì chỉ có bác tài là nắm rõ, và đôi khi nó cũng chỉ là một trong các chiêu trò ma quái, mà các bác ấy nghĩ ra để lừa gạt, để tìm cách chiếm đoạt thân thể của các cô bạn hàng. Phần các cô thì nhiều khi cũng muốn dễ dãi chút đỉnh với bác tài, với anh phụ xe, để họ còn giấu giếm cho vài món hàng, hòng khi xui rủi lỡ gặp quản lý thị trường tới khám xét, hàng không bị tịch thu hoặc phải đóng thuế nhiều. Cuối cùng thì cái chuyện ‘trao đổi’ như thế nào để hai bên cùng có lợi xảy ra là điều tất yếu. Những chuyện này Hoài vẫn thường được nghe bạn bè ở công ty kể đã lâu, nàng không biết là An có nằm trong số đó hay không? Có hay không thì chỉ có trời mới biết, vì cánh đàn ông thường chung một duộc. Hoài nhận thấy đa số các bác tài mà nàng biết được, hầu hết đều có bồ nhí ở bên ngoài, ông nào còn thấy mình có tí trách nhiệm, thì sau khi xong cuộc vui ‘ăn chả’ còn tìm đường trở về nhà, nhưng cũng không ít người quen mùi, bỏ mặc vợ con và cuốn gói đi biệt tăm cùng với tình nhân.

Chuyện xảy ra giữa An và Lý, cuối cùng cũng đã đến tai chị Tâm. Ban đầu chị còn la mắng trách móc em mình, nhưng khi biết là mọi chuyện đã đi quá xa và khó lòng dứt bỏ. Bí thế, chị quay sang năn nỉ An hãy buông tha cho em của chị, dẫu sao Lý cũng còn cả một tương lai phía trước. Và Lý thì không thể nào lấy một người chồng như An được, vì dù gì thì An cũng đã có gia đình, An nghe chị Tâm nói cũng cảm thấy thương chị ấy, nhất là những lúc chị ấy quì dưới chân An mà khóc lóc van xin cho em mình. Nhưng rồi cũng chỉ được ít ngày, sau đó thì mọi chuyện đâu lại hoàn đó…An và Lý không thể nào dứt bỏ nhau được. Cuối cùng để cho việc lén lút chung sống với nhau được êm xuôi, hai đứa bèn thuê hẳn một căn nhà ở ngoại ô Sài Gòn để xây tổ ấm.
 Riêng Hoài, lắm lúc nàng cũng chẳng hiểu vì sao cô Lý lại khờ dại đến thế, đâu phải cô ta không đẹp đâu, mà còn quá đẹp nữa là khác. Ấy thế mà lại chấp nhận sống chung với một người đàn ông đã có gia đình. Mặc cho búa rìu dư luận, mặc cho gia đình cô ấy ra sức cản ngăn… Tất cả đều đã không làm thay đổi được điều gì. Thật đúng là khi yêu thì ngoài tiếng nói của con tim ra, mọi chuyện đều trở nên vô nghĩa.
Bẵng đi một thời gian, không ai hiểu vì sao đôi gian phu dâm phụ này, bỗng quay trở về làng xưa và đóng đô ở gần nơi mẹ con Hoài trú ngụ. Một cái gai khó coi trước mắt mọi người, ai ai cũng muốn nhổ bỏ nhưng không được. Riêng Hoài vì không muốn ngày ngày phải chứng kiến những chuyện vớ vẩn và chướng tai gai mắt này, nên Hoài dẫn hai con về ở căn nhà của cha mẹ ruột để lại. Căn nhà này sau khi ông bà Linh qua đời, Hoài đã đóng cửa và không ở, vì nàng sợ những ký ức về cha mẹ khi trước làm nàng đau khổ, vả lại bây giờ dù sao hai đứa con của nàng cũng đã lớn; ít nhiều chúng nó cũng làm cho nàng quên bớt những phiền muộn khi nghĩ về cha mẹ.
Cặp đôi ‘già nhân ngải non vợ chồng’ An và Lý này vẫn sống nhởn nhơ, chai lì với những lời đàm tiếu…Họ chẳng coi mọi người chung quanh ra gì, và còn cho rằng việc chung sống của họ là bình thường như bao cặp đôi khác, không có chuyện gì đáng để mọi người phải lưu tâm. Bẵng đi một thời gian, vô tình gặp thấy cô Lý ngoài chợ, Hoài nhận thấy bụng cô ta đã phát triển hơn bình thường…

Chuyện hôn nhân của An và Hoài đổ vỡ đều đã đến tai các bạn. Và nhiều người không tin đó là sự thật, vì trước đây họ đã từng mơ ước có một cuộc sống giàu có và hạnh phúc, như gia đình của An và Hoài. Người có chút lương tri, khi hiểu chuyện thì cho là Hoài rất đúng trong việc bảo vệ và giữ lại đứa con của mình. Kẻ vô tình thì cho rằng Hoài thiếu suy nghĩ, vì đã không tính tới việc đã để lại nỗi khổ cho mình, và nỗi đau cho đứa bé. Riêng việc mình bị tai nạn, không còn khả năng lao động và phải đi ăn xin, Hoài giấu kín và không muốn cho ai biết cả.
Thời gian thấm thoát trôi, bé Ngọc Hương đã học hết lớp năm và đang chuẩn bị bước vào lớp sáu. Biết rằng con càng học cao lên thì phải chi tiêu cho con rất nhiều, nhưng vì muốn con được ăn học đến nơi đến chốn, hy vọng mai sau sẽ thoát cảnh đói nghèo. Hoài không nề hà bất cứ việc gì, ban ngày thì nàng rảo đi khắp nơi trông mong sự thương cảm của thiên hạ qua những đồng xu lẻ, những nắm gạo nghĩa tình…Tối đến lại ngồi miệt mài bên cái rổ to chứa đầy những củ hành để bóc vỏ thuê cho người ta, hôm nào học về sớm bé Hương cũng lăn xả vào bóc phụ với mẹ. Nhìn thấy con nước mắt ngắn dài vì mùi hành cay nồng, Hoài vừa cười vừa thương con đến rơi lệ. Thu nhập hàng ngày của mấy mẹ con cũng tạm đủ dùng. Thằng Hùng tuy còn bé, nhưng ngày ngày cũng chịu khó lặn lội với mẹ để kiếm ăn, Hoài rất lo cho nó. Hoài khuyên con ở nhà đi học, nhưng nó không chịu nghe và nói là không thể để mẹ đi một mình được. Nó còn bảo với Hoài rằng mai mốt lớn lên, nó sẽ đi học nghề để lấy tiền về nuôi mẹ. Nghe con nói Hoài cảm động đến ứa nước mắt.
Những ngày gần đây, báo chí đăng tải tin về một số người bóc lột sức lao động của trẻ em, qua việc bắt chúng nó đi ăn xin, đi bán vé số…Hoài không có thời gian để đọc báo, nhưng chị Hai bán nước đầu ngõ cho Hoài biết, và dặn dò Hoài phải để mắt tới thằng Hùng:
- Hoài à, em phải trông chừng thằng Hùng con của em nghen.
Nghe chị Hai nói vậy, Hoài mỉm cười:
- Cháu nó nhanh nhẹn lắm chị ạ, có gì mà phải lo. Cái em lo nhất là nó không chịu đi học.
Chị Hai nói tiếp:
- Bởi vì em không theo dõi báo chí nên không biết thôi. Độ rày họ bắt cóc con nít nhiều lắm.
Nghe chị Hai kể, Hoài nghĩ rằng ở trên đời này mọi chuyện đều có thể. Biết đâu nó lại xảy đến với con mình, thôi cứ đề cao cảnh giác vẫn hơn. Theo như chị Hai thì thằng Hùng rất lanh lẹ, và chính những người bị dị tật như nó mới xin được nhiều tiền, vì dễ làm xúc động lòng người ta, do đó nó sẽ là đối tượng, mà nhiều tay ma cô lừa đảo để ý và khai thác. Nghe chị ấy nói, Hoài cũng cảm thấy lo sợ, vì thực ra nếu mà người ta cố tình bắt cóc thằng Hùng, thì Hoài cũng chỉ biết ngồi nhìn chứ với một chân còn lại thì làm sao mà đuổi theo được những kẻ ấy.

Tiết trời tháng tư nắng gay gắt, hai mẹ con Hoài tìm chỗ trú ẩn dưới tán xoan già. Cơn buồn ngủ từ đâu kéo đến, Hoài dặn dò con:
- Con không được đi đâu xa nhé, chỉ ngồi chơi gần ngay bên mẹ mà thôi. Độ này mấy kẻ xấu bắt cóc trẻ em nhiều lắm.
 Nghe mẹ nói vậy, Hùng lấy làm ngạc nhiên vội hỏi:
- Con cóc nhìn nó ghê thế, ai mà dám bắt hở mẹ? Mà họ bắt nó làm chi vậy mẹ?
Hoài buồn cười với câu hỏi ngớ ngẩn của con:
- Không phải là bắt con cóc, mà là người ta bắt trẻ em đem về mổ bụng lấy nội tạng đem bán, có người thì đem về bắt đi xin ăn, xin được bao nhiêu tiền, họ lấy hết, chỉ cho ăn cơm mà thôi. Hôm nào mà không mang tiền về hoặc mang ít là họ đánh đập và bỏ đói…Con hiểu chưa?
Hùng ngây thơ thật thà:
- Đó là mấy em ấy đi xin dở ẹc, chứ gặp con thì đừng có hòng mà bỏ đói được con, bao giờ con cũng xin được nhiều tiền, phải không mẹ?
Hoài buồn cười với câu nói của con. Sau đó nàng nhìn con:
- Thôi con ngồi chơi, mẹ nhắm mắt chút đây.
- Dạ.
 Lôi chiếc xe cạp đất bằng nhựa trong chiếc giỏ củ rích ra, chiếc xe này đứa bé gần nhà mới cho Hùng hôm qua, nó mãi mê với việc xúc và đổ đất, bên cạnh nó trên chiếc xe lăn, Hoài ngã đầu dựa vào tấm chắn phía sau lưng và ngủ ngon lành.
 Bỗng có hai người đàn ông dáng điệu trông rất dữ dằn, họ nhìn và quan sát chung quanh. Thấy không có gì khả nghi, họ bèn tiến lại gần nơi Hùng đang ngồi chơi. Một người trong bọn họ móc cục kẹo trong túi ra và đưa cho Hùng. Ban đầu Hùng không lấy mà chỉ trố mắt nhìn, nhưng người đàn ông còn lại làm bộ nhân từ nói với Hùng:
- Chú thấy con tội nghiệp, chú cho con kẹo nè.
Hùng nghe thấy thế liền cầm lấy, và khi nó còn chưa kịp bóc vỏ, thì một người lấy chiếc khăn bịt mồm nó, người còn lại vội bế xốc nó lên, và chạy nhanh ra chiếc xe đang nổ máy đợi sẵn gần đó và phóng đi. Từ bên kia đường, chị Hai bán nước đã để ý xem bọn người này làm gì với thằng bé. Nhưng vì bọn chúng hành động quá nhanh và bất ngờ, nên chị không kịp chuẩn bị. Tiếng xe máy gầm rú vọt qua quầy bán nước, và chị thấy thằng Hùng đang quẫy đạp trong khi tên ngồi sau thì cố gắng giữ chặt nó. Nhìn quanh quẩn không thấy có vật gì để chống trả với bọn người này. Chị Hai vơ vội cái ghế đôn bằng gỗ mà chị vẫn thường ngồi để bán nước. Chị cầm lấy cái ghế và chạy nhanh ra mép đường, miệng hét to:
- Bớ người ta bắt cóc trẻ em.
Sau đó chị dùng hết sức mình, ném mạnh cái ghế vào xe của bọn này. Tuy sợ rằng mình ném phải thằng Hùng, nhưng trong trường hợp này chị Hai biết là mình sẽ không thể làm gì khác hơn được. Và điều may mắn đã đến với chị, cái ghế không bay trúng thằng bé, mà đập ngay vào mặt tên ngồi ở phía sau. Do bị bất ngờ và quá đau đớn, tên ngồi sau có nhiệm vụ ôm thằng Hùng buông tay ra và ôm lấy mặt, tiếp theo chị Hai thấy nó bị ngã lăn đùng khỏi xe. Tên kia thấy vậy thì một tay cầm lái, tay còn lại quờ ra phía sau và giữ chặt lấy thằng Hùng, sau đó rú ga bỏ chạy. Chị Hai lấy làm tiếc vì giá mà cái ghế đập trúng phải thằng cầm lái, thì có lẽ mọi chuyện đã khác hẳn, chúng nó có chạy đằng trời cũng không thể nào thoát được.
Lúc này thì mọi người đã kéo nhau ra đứng ở vỉa hè rất đông, để xem chuyện gì đã xảy ra. Sau khi nghe chị Hai kể lại sự việc, họ bèn túm lấy và trói tên bắt cóc bị té ngã. Một số thanh niên trai trẻ bực tức, đấm đá túi bụi vào người hắn. Vì quá đau đớn và sợ hãi, hắn quỳ mọp xuống đất và van xin tha thứ. Sau đó mọi người bàn nhau giao nộp tên này cho chính quyền.
Phần Hoài vì quá mệt mỏi, nên dù mọi chuyện xảy ra ngay cạnh kề và thật là ồn ào, nhưng nàng vẫn không hay biết gì, chỉ đến khi chị Hai bán nước lại gần và đập vào vai đánh thức, Hoài mới giật mình tỉnh dậy. Nhìn quanh không thấy con mình đâu cả, và lại thấy có rất đông người đang tụm năm tụm ba bàn tán xôn xao, Hoài vẫn chưa biết chuyện gì đã xảy ra. Chỉ đến khi chị Hai bán nước lên tiếng:
 - Người ta bắt cóc thằng bé đi rồi.
Hoài trợn tròn mắt nhìn chị Hai, miệng ú ớ:
- Sao…chị nói sao? Thằng Hùng bị người…ta…bắt…
Thấy chị Hai không nói mà chỉ gật nhẹ đầu. Hoài biết là mọi tai ương đã đổ ụp xuống con mình. Nàng ôm mặt khóc nức nở:
- Ông Trời ơi! Tôi đã phải chịu đựng biết bao điều cay đắng…Thế mà vẫn chưa đủ hay sao? Thằng Hùng con tôi, nó có làm gì nên tội đâu?
Chị Hai bán nước nghe Hoài kêu khóc cũng mủi lòng. Nắm lấy tay Hoài, chị ấy an ủi:
- Thôi em đừng buồn nữa, chuyện đâu còn đó, thật là may mắn hết sức khi mọi người đã bắt được một tên trong bọn chúng, và hiện chính quyền đang điều tra nó.
Hoài nghe chị Hai nói, liền nhổm người lên như muốn nhảy ra khỏi chiếc xe lăn:
- Vậy còn con em thì sao? Nó có ở đây không?
Chị Hai vừa lắc đầu vừa nói:
- Tên cầm lái đã chở thằng bé đi mất, và hiện không ai biết bọn chúng đã giam giữ nó ở đâu.
Hoài nghe thấy thế lại càng khóc to hơn:
- Hùng ơi! Lỗi tại mẹ đã để cho người ta bắt mất con. Trời ơi! Tôi biết phải làm sao để tìm lại con tôi bây giờ.
Chị Hai trấn an Hoài:
- Thôi em đừng buồn nữa, mọi chuyện đâu còn đó, và trước sau gì chính quyền họ cũng tìm ra mà.

Những ngày sau đó đối với Hoài là những ngày buồn thảm, nàng chẳng thiết tha gì tới việc ăn uống, và suốt ngày chỉ ngồi khóc khi nghĩ đến con. Hàng xóm thấy vậy cũng qua nhà thăm hỏi và an ủi nàng, trong số những người này, chỉ có chị Hai bán nước là thường xuyên lui tới với Hoài nhiều nhất, chị ấy chỉ sợ Hoài vì buồn chán đâm ra nghĩ quẩn, rồi có những hành động không tốt cho bản thân, lắm hôm chị ấy còn nghỉ đêm tại nhà Hoài và vui đùa với bé Ngọc Hương.
Nói về Hùng thì sau khi tên cầm lái chạy thoát, và đưa nó về một căn nhà nhỏ trong con hẻm nọ. Ở đấy nó thấy có một vài người đàn ông đang chờ sẵn, nhìn mặt ai nấy đều dữ tợn, họ nhìn nó với những ánh mắt soi mói và không mấy thiện cảm, làm cho nó bỗng thấy lo sợ.
Một tên có hàm râu quai nón rậm rạp, gần như che kín hết cả khuôn mặt vừa lườm lườm Hùng vừa nói:
- Này nhé, biết điều thì ngồi yên, la lên là bị ăn đòn đó!
Những tên còn lại ngồi bàn tính với nhau những gì Hùng không nghe rõ, chỉ thấy thỉnh thoảng họ lại đưa mắt nhìn Hùng và quan sát thật lâu.
Vào một buổi sáng nọ, sau khi cho Hùng ăn sáng xong thì họ kéo nhau đi đâu Hùng không biết, chỉ thấy qua ô cửa nhỏ, Hùng thấy họ dẫn theo một vài em bé ra xe, và sau đó cho tất cả lên xe bít bùng rồi nhanh chóng chở đi, họ chở các em ấy đi đâu… làm sao mà Hùng biết được. Hùng nhớ lại những gì mẹ đã nói khi trước, và đoán rằng đây có thể là lũ người chuyên đi bắt cóc trẻ em về, để phục vụ cho ý đồ xấu xa của bọn chúng qua việc bắt các em đi ăn xin, đi bán vé số và cũng có thể chúng nó bán lại cho bọn buôn người để mổ lấy nội tạng.
Vậy là đã hơn một tuần Hùng không được nhìn thấy mẹ và chị Ngọc Hương, nhiều khi nhớ nhà quá, Hùng chỉ biết ngồi khóc rấm rứt. Một con mụ đàn bà từ đâu xuất hiện và ra sức dỗ dành Hùng, nhưng chẳng những nó không nghe mà lại khóc to hơn. Dường như thấy việc dùng những lời nhẹ nhàng thuyết phục Hùng không được, mụ ta bắt đầu chuyển qua lớn tiếng đe nẹt nó. Cuối cùng có lẽ không thể nào chịu đựng được hơn nữa, mụ ta giơ tay tát vào mặt nó và hầm hầm đứng dậy bỏ đi.
Mụ đàn bà gian ác vừa quay lưng đi khỏi nơi Hùng bị nhốt khoảng chừng dăm phút. Bỗng nhiên nó nghe có nhiều tiếng nói hối hả, và tiếng những bước chân chạy rầm rập. Cánh cửa phòng nơi bọn chúng nhốt Hùng bật mở, và nó thấy bọn chúng lôi kéo các em bé vào phòng thật nhanh và sau đó đóng sầm cửa lại, bọn chúng chỉ để lại một tên trông chừng các em mà thôi. Nhìn những gương mặt mang đầy nỗi lo lắng và sợ hãi của bọn chúng, Hùng nghĩ rằng có thể việc làm mờ ám của bọn chúng đã bị chính quyền phát giác. Và đúng với những gì Hùng suy đoán, nó nghe có tiếng ổ khóa kêu lách cách, và cánh cửa phòng nơi bọn chúng nhốt Hùng và các em bé lại được mở tung ra, nhưng lần này nó thấy có thêm sự xuất hiện của các chú cảnh sát. Riêng bọn người kia, tên nào tên nấy đều đã bị còng tay lại và mặt mày chúng thì xanh mét vì sợ hãi. Trông thấy các chú cảnh sát, các em vội chạy lại và ôm chầm lấy các chú ấy.
Một chú cảnh sát dẫn Hùng về nhà, nó thấy chú ấy dặn dò gì đó với mẹ, sau đó chú ấy chào cả nhà và ra về. Mẹ con Hoài ôm lấy nhau mà nước mắt chảy ròng, chị Hai bán nước cũng vừa cười, vừa lấy khăn lau những giọt nước mắt đang chảy dài trên má, trông chị ấy đáng yêu làm sao chứ! Hoài quay sang cám ơn chị Hai và ôm lấy chị ấy. Thật là một con người sống có nghĩa có tình, chị Hai vui với niềm vui của người khác và cũng đau với nỗi đau của họ.

Tình trạng thực phẩm bẩn và sử dụng hóa chất để tạo màu, tạo mùi, hòng lôi kéo người tiêu dùng ngày càng tinh vi hơn. Con người đang sáng chế ra những thứ giết người mà họ gọi là khoa học kỹ thuật, nó giúp đẩy nhanh quá trình sản xuất, giảm thiểu thời gian, nó làm đảo lộn cái trật tự mà Tạo Hóa đã lập ra. Nhớ lại khi trước, nuôi một con heo cho đến ngày đủ cân đủ ký, phải mất khoảng hơn sáu tháng. Và khi đem mổ, nhìn những miếng thịt tươi sắc hồng. Rồi khi cho lên bếp nấu chín, mùi thơm của thịt ngào ngạt cái lỗ mũi, hấp dẫn những cái bao tử đang cơn đói khát. Thế nhưng ngày hôm nay, để nuôi một con heo. Người ta không phải vất vả trong việc đi hái lá rau, thái từng khoanh chuối… Họ chỉ cần đổ vào máng các loại thức ăn đã được chế biến và pha chế đầy đủ các loại thuốc kích thích, tăng trọng… Và thế là không đầy bốn tháng, chú heo đẩy tạ đã được nằm trên bàn mổ. Và phải nói là miếng thịt heo của ngày hôm nay đã không còn ngọt ngào và thơm tho như trước nữa! Chuyện đói thì phải ăn, nhưng ăn mà có cảm giác lo sợ khi nghĩ đến sự độc hại của phương pháp chăn nuôi mới…Thật không ai còn được chút sảng khoái nữa. Và nhiều kẻ táng tận lương tâm khi bơm nước bẩn vào trong con heo đang sống để tăng ký, để kiếm lời bất chính, mặc cho người tiêu dùng sống dở chết dở. Thật đúng là những kẻ giết người không gươm – Đạo và đời đều lên án!
Ngoài ra ai mà không đau lòng khi nhìn thấy những em bé cầm trên tay các món đồ chơi, mang đầy màu sắc của chì và kẽm; màu của sự chết chóc. Ngay cả chính cha mẹ chúng và những người lớn mà còn bị lầm huống chi là chúng - những đứa trẻ ngây thơ vô tội. Rồi có những bạn trẻ nhai ngấu nghiến quả táo, quả lê…mà họ đâu biết rằng nó đã được nuôi dưỡng bằng thuốc kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tạo độ bóng và thuốc bảo quản luôn xanh tươi…Thế là ngày hôm qua, ngày hôm nay, người ta lại phải chứng kiến và phải đổ biết bao là nước mắt khóc thương cho những người nằm xuống vì ung thư, vì đột quị, vì những căn bệnh lạ. Xưa kia việc ăn uống được liệt vào một trong hàng tứ khoái của con người, còn bây giờ việc phải ăn, phải uống dường như là chuyện bắt buộc mọi người phải tuân thủ, kể cả khi họ nghĩ rằng những thứ họ đang đưa vào bao tử mang đầy những thứ độc hại, chết người. Nhưng biết làm sao hơn, khi việc ăn uống lại là một trong những nhu cầu sống còn của cơ thể. Giới kinh doanh không cần biết nó tác hại cho sức khỏe cộng đồng như thế nào, họ chỉ nghĩ tới việc thu nhập càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Bước chân vào các bệnh viện, ôi thôi không thiếu gì các loại bệnh do thực phẩm gây ra. Một đất nước với dân số không quá nhiều, nhưng nói về những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, lao phổi…thì gần như xấp xỉ với những quốc gia trên thế giới với dân số lên đến hàng tỉ người. Một sự so sánh tuy khập khiễng nhưng phải nói là quá đau đớn, cho những ai còn nặng lòng với đất nước nhỏ bé này!

Hoài đang chuẩn bị cơm tối cho hai con, thì nghe thấy bé Ngọc Hương gọi to:
- Mẹ ơi! Em Hùng nó bị làm sao nè?
Hoài quay chiếc xe lăn lại và tức tốc di chuyển lên nhà trên. Nàng hốt hoảng khi thấy thằng Hùng vừa khóc, vừa nằm ôm bụng lăn lộn qua lại. Trườn ra khỏi xe lăn, Hoài ngồi xuống ôm lấy con và dỗ dành nó.
- Con bị làm sao thế, nói cho mẹ nghe.
Miệng méo xệch Hùng trả lời mẹ:
- Con đau bụng quá mẹ à.
- Thế con ăn phải thứ gì?
- Dạ con chỉ ăn có mỗi một quả chuối mà bạn Hằng đã cho con.
Với tay lấy chai dầu gió ở đầu giường, Hoài xoa vào bụng con hồi lâu. Bỗng thằng Hùng nôn thốc nôn tháo ra đầy nhà, thương con nhưng Hoài cứ để mặc kệ, vì nàng nghĩ rằng nếu ói ra được thì sẽ bớt khó chịu và đau đớn hơn. Thằng Hùng đã thôi không còn nôn ói nữa, nó nhìn mẹ miệng như muốn cười:
- Mẹ ơi, con đã đỡ đau bụng hơn rồi, con cám ơn mẹ nhé.
Trời thương thằng bé cũng mau chóng qua khỏi cơn đau, chứ bằng không thì Hoài chả biết phải làm sao. Nhìn những thứ con nôn ọe ra, Hoài thấy có cả những mẫu chuối vàng. Nàng rùng mình khi nghĩ tới những quả chuối xanh được tưới bằng hóa chất cho mau chín, và còn được bảo quản cho lâu bị hư thối, nhờ các loại thuốc được giới con buôn nhập về qua đường biên giới. Nhiều người ở các tôn giáo khác thường kể cho Hoài nghe, và họ rất bực mình vì lỡ mua phải loại chuối này về cúng ông bà, chỉ từ sáng tới chiều là chuối đã ngã màu và thâm đen.
Hoài dặn dò các con:
- Từ này về sau, hễ ai cho bất cứ thức ăn uống gì, các con đưa cho mẹ xem qua nhé, ăn uống không cẩn thận rất nguy hiểm đến tính mạng.
Thằng Hùng nhanh nhảu:
- Thì con thấy bạn Hằng đưa cho con, lúc đầu con cũng hơi sờ sợ, nhưng khi nghe bạn ấy bảo  rằng yên chí đi, vì bạn ấy đã xơi liền một lúc mấy quả rồi.
Hoài nói là nói vậy thôi chứ thực ra nào ai biết được người ta chế biến ra sao, pha trộn những gì trong đó. Nào đâu phải chỉ riêng thằng Hùng bị đau bụng mà thôi. Con bé Hằng tới nhà định rủ thằng Hùng đi khất thực. Con bé chưa kịp nói gì cả, thì Hoài đã thấy nó ngã vật ra nền nhà và ôm lấy bụng kêu la. Thì ra hai đứa đều ăn phải những quả chuối mà người ta đã sử dụng thuốc.
 Sau khi con bé đỡ đau, Hoài ngồi hỏi chuyện nó. Thì ra cũng chỉ vì bị phát hiện mắc phải chứng sứt môi hở hàm ếch, mà người cha của đứa bé đã đang tâm bỏ rơi nó. Mẹ nó do thường xuyên đau bệnh, nên sanh nó ra rồi phải đem đi gởi ở trại cô nhi, nó bảo với Hoài là vì trời còn thương, nên nó chỉ bị sứt môi hở hàm ếch, còn ngoài ra thì không bị gì khác ảnh hưởng đến cuộc sống cả.
- Thế sao con không ở trong trại cô nhi mà lại ra ngoài đi khất thực?
Bé Hằng buồn bã trả lời:
- Tại vì các bạn ở cùng hay đánh đập và mắng chửi con, con chịu không nỗi nên trốn ra ngoài.
Hoài cảm động khi nghe bé Hằng nói, nàng hỏi tiếp:
- Vậy bây giờ con đang ở với ai?
- Dạ ban ngày con đi xin ăn, tối về con ngủ nhờ ở nhà bà lão kia. Bà ấy cũng không còn ai thân thích cả, thấy con như vậy thì bà ấy thương tình cho ở nhờ, cũng may là bà ấy còn có căn nhà lụp xụp để chui ra chui vào.
- Thế con có còn nhớ cha mẹ con nữa không?
Đôi mắt bé Hằng ngân ngấn nước mắt:
- Dạ…ba con thì con không thể biết được, vì con nghe mẹ nói ba đã bỏ đi từ khi con còn trong bụng mẹ.
- Vậy bây giờ mẹ con đang ở đâu?
Lúc này con bé khóc nhiều hơn, Hoài cảm động ôm nó vỗ về:
- Thôi con đừng buồn nữa, cô thương mà.
Giơ tay quệt nước mắt, bé Hằng thổn thức:
- Thời gian sau này mẹ con thường ghé vào trại thăm và mua bánh cho con. Bẵng đi một thời gian khá lâu không thấy mẹ ghé thăm, con có hỏi các Dì phước, thì được cho biết là mẹ con đã mất do bệnh ung thư. Con trách các Dì sao không cho con về để tang mẹ, các Dì ấy bảo là mãi sau này mới nhận được tin mẹ con mất.
 Nhìn bé Hằng, Hoài bỗng thở dài và thấy nó thật tội nghiệp, thật đáng thương. Thằng Hùng con mình dẫu sao thì nó vẫn còn có mẹ, có chị.

Lợi nhuận của việc buôn bán trẻ em qua biên giới, và buôn bán nội tạng người đang là món hàng kinh doanh béo bở, khiến cho không ít người gạt bỏ lương tâm qua một bên, và lao theo việc làm thất nhân thất đức này.
 Thời gian gần đây do buôn bán ế ẩm, nên dần dần các bạn hàng của An, đã chuyển sang kinh doanh các ngành nghề khác, khiến cho thu nhập của An cũng bị ảnh hưởng và giảm sút đáng kể. Một sáng nọ An ngồi uống cà phê với các bạn tài xế, nghe họ kháo nhau đi buôn qua biên giới rất mau giàu mà vốn liếng chẳng mất bao nhiêu. Về đến nhà suy đi tính lại, thấy không còn con đường nào khác An cũng lần mò theo họ. Khi đã sa chân vào rồi, thì cho dù An biết những việc làm trên đây là tàn nhẫn, nhưng vì thấy thu nhập quá khủng, nên đành nhắm mắt làm liều, chàng cũng đã tính tới chuyện bị bắt bớ, bị tù đày… Nhưng thây kệ, khi nào xảy ra thì hẵng hay.
Sau khi gom góp được một số tiền và tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm trong những việc làm ăn phi pháp, An quay trở về thành phố và lập băng nhóm. Biết bao nhiêu đứa trẻ đã bị bọn chúng lừa gạt, để rồi sau đó bị dẫn dụ qua biên giới bán cho những tên trùm chuyên mua bán nội tạng, cung cấp gái cho những người có nhu cầu. Đã có không ít các bậc làm cha làm mẹ khóc hết nước mắt vì bị mất con. Họ đều biết rất rõ là một khi đã sa vào tay của bọn buôn người gian ác này, thì coi như con cái mình cầm chắc cái chết. Báo cáo với chính quyền thì họ cũng ra tay và truy đuổi ráo riết, nhưng thử hỏi dưới vòm trời bao la này, cánh tay của họ sao có thể vươn xa và trải rộng ra hết khắp hang cùng ngõ hẻm được, thế là kẻ xấu vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và tiếp tục gây tội ác. Bởi thế cho nên, tiếng than khóc xé lòng của những bà mẹ vô phước bị mất con, vẫn còn tiếp diễn không ngừng.

Trời hôm nay quá nắng, hai đứa bàn nhau vào quán cơm vừa tránh nóng vừa xin tiền. Bước vào quán, chúng thấy cái bàn ở trong góc của quán ăn còn trống chỗ nên vào đấy ngồi nghỉ. Một gã đàn ông nhìn tướng mạo rất sang trọng ngồi bàn bên cạnh, ông ấy đã ăn xong và đang ngồi xỉa răng. Trông thấy hai đứa vào ngồi mà chẳng gọi thức ăn, giơ tay vẫy Hùng lại gần, ông ấy nói:
- Tại sao các cháu không ăn?
Hùng nói nhỏ như sợ người khác nghe thấy:
- Chúng cháu đi xin, làm gì có tiền mà dám ăn trong những quán như thế này.
Gã đàn ông hỏi tiếp:
- Vậy các cháu có ăn không ta mua cho?
Mắt Hùng sáng lên:
- Dạ…dạ có ăn ạ.
Bé Hằng nghe thế cũng vội chạy qua:
- Ông ơi, ông cho cả cháu ăn nữa nghe, cháu cũng đang đói lắm.
Gã đàn ông xoa đầu bé Hằng và gọi chủ quán:
- Cô bán thêm cho tôi hai hộp cơm.
Sau khi gã đàn ông tính tiền, thay vì ngồi ăn tại bàn, hai đứa kéo nhau ra ngồi ở vỉa hè, có lẽ chúng ngại ngùng vì quần áo đang mặc trên người trông lếch thếch và bẩn thỉu. Gã đàn ông thấy vậy cũng đi theo và ngồi xuống cạnh hai đứa. Mở hộp cơm ra chưa kịp ăn, Hùng và bé Hằng thấy gã đàn ông móc túi lấy ra tờ tiền một trăm ngàn mới tinh và nói:
- Hai đứa lại tủ nước đàng kia mua hộ ông mấy lon nước ngọt nhé.
Mấy khi gặp được người tốt bụng như vậy, Hùng và bé Hằng liền đứng dậy và chạy nhanh ra phía mà gã đàn ông vừa chỉ để mua nước.
Gã đàn ông cầm lấy một lon uống và bảo với hai đứa:
- Còn lại mấy lon ông cho hai cháu. Hùng cám ơn gã đàn ông và khui lon nước ra, nó tu một hơi thật dài như thể là cả đời nó chưa bao giờ được uống. Thấy thế gã đàn ông cười nói với nó:
- Cháu nên ăn ít cơm trước đã, nước ngọt chỉ đỡ khát mà thôi. Vả lại ông thấy các cháu đang bị đói, nếu uống nhiều nước có ga không tốt lắm đâu.
 Vì cũng đã quá trưa và cơn đói cũng đang hoành hành, nên hai đứa quên mất những gì mà Hoài đã dặn dò. Hơn nữa nhìn thấy ông người lạ kia vui vẻ, hiền lành nên chúng nó không phải lo sợ gì cả. Gã đàn ông ngồi nhìn hai đứa ăn mỉm cười, nhưng chỉ độ sau vài muỗng cơm là Hùng và bé Hằng đã lờ mờ không còn nhận thức được điều gì nữa. Và phải mất một thời gian khá lâu hai đứa mới tỉnh dậy, lúc này thì cả hai mới biết là đã bị lọt vào tay bọn bắt cóc rồi.
Hùng cố gắng ngồi lên để coi xem họ đang nhốt hai đứa ở đâu nhưng không được, toàn thân nó ê ẩm rã rời. Nó chẳng hiểu vì sao mà đầu óc vẫn còn thấy choáng váng quay cuồng, sau khi đã ngủ say được một giấc dài. Hùng chợt hiểu: À thì ra trong lúc đi mua nước ngọt, gã đàn ông kia đã lén bỏ thuốc mê vào trong hộp cơm của hai đứa.
 Bỗng nó nghe có tiếng xì xầm bàn tán của vài người đàn ông ở phòng bên cạnh:
- Thưa đại ca, tụi em vừa mới tóm được hai đứa bé, một trai và một gái.
An nhắc nhở đàn em:
- Tụi cớm đang săn lùng ráo riết, mau mau đưa hai đứa nó nhốt vào hầm, chờ bên ngoài tạm lắng sẽ hành động.
Tên đàn em nói tiếp:
- Qua theo dõi mấy đứa nhỏ này, em thấy tụi nó đi xin được rất nhiều tiền, hay là đưa tụi nó đi thật xa bắt chúng nó đi khất thực rồi đưa tiền về cho mình.
An nhấn mạnh từng chữ trong câu nói:
- Đi xin cũng được, nhưng lúc này bên kia biên giới, vì cần gấp một số nội tạng, nên họ yêu cầu ta cung cấp ngay.
Trời đã về chiều, bình thường như mọi ngày vào giờ này thằng Hùng đã có mặt ở nhà. Thế nhưng hôm nay không hiểu lý do vì sao nó vẫn chưa về khiến Hoài sốt ruột. Từ ngày nó đưa bé Hằng về nhà chơi đến nay, biết là lũ trẻ thích đi chung cho có bạn có bè, nên hôm nào cảm thấy mệt mỏi, Hoài nghỉ ở nhà và để cho hai đứa chúng nó đi cùng, nhưng vẫn không quên dặn dò cẩn thận.
Đẩy chiếc xe lăn xuống khỏi hè cho mẹ xong, bé Ngọc Hương quay trở vào. Ngồi trên xe lăn nhưng Hoài cảm thấy chưa yên lòng, nàng nhìn bé Ngọc Hương nhắc nhở:
- Con không được đi đâu cả, phải ở trong nhà và đóng chặt cửa lại, chỉ khi nào mẹ gọi mới được mở nghe chưa. Con nhớ nhé, bây giờ họ bắt cóc trẻ em nhiều lắm, phải vâng lời mẹ.
Hoài chờ cho con đóng cửa lại rồi mới lăn xe đi tiếp. Nàng tới nhà bà lão vì hy vọng thằng Hùng sẽ ghé vào đấy để chơi với bé Hằng. Thế nhưng cũng như Hoài, bà lão hành khất đang đứng đợi bé Hằng ngay trước hiên nhà. Gặp Hoài, bà lão mừng rối rít vì ngỡ là con bé đang ở chơi nhà Hoài. Nhưng khi biết được lý do Hoài tới đây, gương mặt bà lão biến sắc. Hoảng hốt và lo sợ những chuyện không hay xảy đến cho mấy đứa nhỏ, hai người kéo nhau đi báo chính quyền.

- Này này, làm nhanh lên kẻo trời sáng rồi.
An lái chiếc xe tải đã được che kín mít, và miệng thì không ngớt giục đám đàn em khẩn trương đưa Hùng và bé Hằng lên xe để chuyển đi.
Phần Hùng và bé Hằng thấy mới tờ mờ sáng đã bị đập dậy, chưa kịp hỏi gì thì hai đứa đã thấy mình bị bịt mắt mũi miệng lại và dẫn đi. Bọn chúng đưa đi đâu làm sao mà biết được, vì ngay cả bọn chúng cũng im lặng và không nói với nhau một tiếng nào. Bé Hằng quá sợ nên khóc rấm rứt, phần Hùng thì tuy có sợ, nhưng dầu sao cũng đỡ hơn, vì trước đây Hùng cũng đã từng bị bắt một lần rồi. Ngoài ra Hùng còn sợ bé Hằng cười vì con trai gì mà mít ướt, lắm nước đ…thế!
Ngồi trên xe trong trạng thái bị che kín hết mặt mũi, nên hai đứa chỉ biết nằm im phó mặc cho may rủi. Tuy không biết là chúng sẽ đưa mình đi tới đâu, nhưng Hùng đoán là đã đi rất xa rồi, vì thấy xe chạy mãi mà không ngừng.
Bỗng chiếc xe giật nẩy lên mấy cái rồi dừng hẳn lại. Vì bị xốc mạnh thình lình, nên đầu của Hùng bị sưng vù do va phải thùng xe, khiến nó khá đau đớn. Nhìn sang bên cạnh, nó thấy bé Hằng cũng đang nhăn nhó vì đau. Chợt có tiếng ai đó quát tháo ở bên ngoài thùng xe:
- Trên xe chở hàng gì mà bịt kín vậy?
Nghe vậy Hùng biết là đã tới trạm kiểm soát, nó muốn hét lên thật to hòng cầu cứu mọi người giúp đỡ, nhưng không thể nào há miệng ra được, vì miệng nó đã bị bọn người kia bịt kín bằng băng keo.
Vẫn giọng nói vừa rồi vang lên:
- Mau tháo mấy tấm bạt ra cho chúng tôi lên kiểm tra.
Có tiếng nói nhỏ nhẹ như năn nỉ:
- Xe em chở ít phân qua biên giới bán cho mấy người làm vườn, nên phải che kín lại sợ mùi hôi thối bốc ra. Thôi mấy anh cầm tạm chút đỉnh uống cà phê.
Sau câu nói vừa rồi, Hùng thấy bên ngoài đột nhiên im lặng, không rõ có chuyện gì đã xảy ra cho bọn buôn người. Nó hồi hộp nằm im chờ đợi, và hy vọng phép mầu một lần nữa sẽ lại xảy đến với mình. Thời gian yên lặng mất khoảng vài phút. Hùng sốt ruột, miệng nó luôn thầm thì cầu xin và mong cho họ nhanh chóng mở tung tấm bạt che xe, may ra họ sẽ nhìn thấy hai đứa đang bị trói, và hai đứa sẽ được cứu thoát. Bất chợt Hùng nghe như có bước chân ai đó dẫm thình thịch trên sàn của thùng xe, và sau đó là tiếng la to:
- Sao lại có mấy đứa bé ở đây? Và tại sao lại bịt kín mặt mũi chúng nó như vậy? Bọn chúng mày buôn người phải không?
Sau đó Hùng và bé Hằng đã được cởi trói và tháo băng keo bịt miệng ra. Viên cảnh sát biên phòng vỗ vai Hùng và hỏi:
- Mấy cháu là con nhà ai? Sao lại bị thế này?
Lúc này Hùng đã bớt sợ hãi, nó bèn nói với viên cảnh sát:
- Bọn họ bắt hai đứa tụi cháu và mang tới đây, cháu nghe họ nói với nhau là sẽ mang chúng cháu qua biên giới, bán cho mấy người đang cần nội tạng.
Tiếng còi hụ vang lên, bọn buôn người đã bị còng tay và dẫn đi. Sau đó Hùng và bé Hằng cũng được các chú cảnh sát biên phòng đưa về đồn.
Bà lão hành khất và Hoài được báo tin, bèn đi lên tận nơi để nhận hai đứa về.
Hoài nắm tay thằng Hùng và dẫn nó đi theo hành lang của đồn biên phòng. Khi đi ngang qua dãy ghế, mà những tên buôn người đang bị còng tay ngồi chờ trước khi bị đưa vào nhà giam. Hoài hết sức ngạc nhiên và nhận ra trong bọn buôn người đó còn có cả An. Dường như anh ta cũng nhận ra Hoài, nhưng Hoài phớt lờ làm như không nhìn thấy. Thật ra Hoài đang chết điếng trong lòng, vì không thể ngờ người chồng cũ của mình lại đi làm những việc động trời như vậy…Và nếu không bị phát hiện sớm, thì chỉ chậm một chút nữa thôi là anh ta cùng đồng bọn đã bán, đã giết hại cùng một lúc hai đứa trẻ tật nguyền, trong đó có cả những giọt máu mủ ruột thịt của An. Chỉ nghĩ tới đó thôi là Hoài đã thấy rùng mình khiếp sợ.
Phần An, khi nhìn thấy Hùng đi bên cạnh Hoài, anh ta chột dạ và suy nghĩ: Không lẽ thằng bé tật nguyền này chính là con của mình với Hoài? Đứa con mà mình đã chối bỏ khi nó còn trong bụng mẹ. An gục đầu lặng lẽ, người ta nhận thấy có những giọt nước mắt rơi ra và chảy xuống nền nhà, nơi An đang ngồi. Anh ta khóc vì bị bắt hay là khóc vì hối hận qua những việc làm của mình…Tất cả đã quá muộn đối với anh ta lúc này!

Một ngày nọ Hoài bỗng nhận được một lá thư do viên quản ngục mang đến, chưa kịp mời ông ta vào nhà và hỏi xem sự tình, thì đã thấy ông ấy cúi chào và vội vã quay đi. Mở bức thư ra, Hoài giật mình khi nhận thấy những nét chữ trong đó chính là của An, những nét chữ thân yêu mà ngày xưa khi lần đầu hai đứa gặp gỡ và quen biết nhau, An đã viết lên những lời yêu thương gởi đến cho nàng. Và lúc này đây chàng còn muốn nói điều gì nữa, khi viết lên những dòng chữ này ngay trong ngục tù. Mọi chuyện xảy đến quá bất ngờ khiến Hoài bủn rủn cả người. Chàng ta viết gì đây, có cần thiết hay không? Hoài gấp lá thư lại và định bụng sẽ không đọc nó. Đọc làm gì khi mọi chuyện đã xảy ra rành rành, qua những gì An đã nói, đã làm và đã gây ra cho Hoài, cho các con của nàng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đã đủ để nói lên con người thật của chàng rồi. Bé Ngọc Hương thấy vậy liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, sao người ta gởi thư cho mẹ, mẹ không đọc thử xem họ muốn nói gì…Vì thường thì có cần người ta mới viết cho mình, phải không hở mẹ?
Hoài nói cho con bé yên lòng:
- Mẹ sẽ đọc chứ, nhưng là lúc khác vì bây giờ mẹ đang nhức đầu.
Bé Ngọc Hương vẫn chưa chịu thua mẹ, nhìn bộ dạng của mẹ, nó đoán đang có điều gì xảy ra cho mẹ đây:
- Nếu mẹ nhức đầu… Hay là… Mẹ cứ nằm nghĩ để con đọc cho mẹ nghe nhé.
- Con ra chơi với em Hùng đi, mẹ đang cần nghỉ ngơi một chút.
Bé Ngọc Hương vâng dạ rồi quay đi.
Những ngày sau đó Hoài luôn băn khoăn không biết là An nói gì trong thư. Nàng đem chuyện này kể lể với chị Hai bán nước. Chị Hai mỉm cười trêu Hoài:
- Người ta muốn nối lại tình xưa ấy mà.
Chị Hai bán nước nói vậy, là vì trước giờ chị chỉ nghe Hoài kể chuyện, chứ thực ra chị ấy đâu có biết mặt mũi của An như thế nào…Và Hoài thì cũng chưa muốn kể lại sự việc đã gặp An ở đồn biên phòng cho chị Hai biết.
Thấy Hoài im lặng, chị ấy nói tiếp:
- Thì em cứ đọc đi cho biết, có chết thằng tây nào đâu mà sợ vậy.
Tuy xa cách nhau lâu rồi, và tuy những nỗi đau mà An đã gây ra cho mẹ con Hoài vẫn còn đó, nhưng sao khi cầm trên tay lá thư của An, Hoài cũng cảm thấy có chút gì đó hồi hộp, lo âu…khi sắp phải nghe lại những lời An nói.
Trong thư An ngỏ lời xin lỗi Hoài, vì quá nghe lời cha mẹ và gia đình bên chàng, nên đã có những hành động không đúng. Lẽ ra nếu lúc ấy mà chàng kềm giữ được cơn nóng nảy, thì mọi chuyện sẽ không xảy ra to tát như vậy. Những lời An nói trong thư đối với Hoài lúc này chỉ như là gió thoảng mây bay, vì lòng nàng như cánh rừng xưa đã khép lại, và khó có hy vọng nó sẽ mở ra một lần nữa. Cuối thư An ngàn lần xin Hoài và các con tha thứ. Và mong được nghe những lời tha thứ ấy, trước khi chàng và đồng bọn phải vào tù, để đền trả những việc làm tội lỗi đã gây ra.
Người xưa thường nói: “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”. Theo Hoài thì qua những gì An đã làm với vợ con, với gia đình và xã hội, tự chàng đã dồn đẩy cuộc đời của mình vào bước đường cùng… ‘gieo gió thì phải gặt bão’ thôi! Với Hoài, thương người và tha thứ cho người là điều quá dễ; hơn nữa người cần tha thứ và thương xót lúc này đây lại chính là người chồng cũ của mình. Với An, kẻ đã gây ra một vết thương lòng quá lớn và sâu sắc, kẻ đã làm tan vỡ cuộc sống lứa đôi bằng việc ngoại tình và giấu giếm tiền bạc để cung phụng cho tình địch. Bấy nhiêu thôi đã đủ để cho Hoài thấy rằng: nếu có hàn gắn lại thì những rạn nứt trong hôn nhân cũng rất khó để mà đạt được như thuở ban đầu.
Phần An, những việc An làm tuy gian ác, nhưng xét theo mức độ vi phạm thì do chàng mới phạm tội lần đầu, nên tòa án đã tuyên buộc và răn đe bằng bản án mười năm tù.
Chuyện băng nhóm bắt cóc trẻ em và buôn bán nội tạng, bị cơ quan an ninh phát hiện bắt giữ, đã được các báo chí và các trang mạng đăng tải, nên nó cũng nhanh chóng được loan truyền đến tai một số bạn bè của Hoài. Riêng Hoài thì chuyện này ngay từ đầu nàng đã biết, nhưng trước mặt các bạn, nàng giả vờ làm như mình không hay biết gì cả. Và theo các bạn học cũ của Hoài, thì dù An có lầm lạc, sai trái…anh ta vẫn là một người bạn. Do đó họ bàn tính nhau là sẽ ghé thăm để an ủi và động viên An. Vì thế, họ rủ rê Hoài đi thăm An, và khuyên nàng nên quên đi chuyện cũ, nhưng Hoài lấy lý do bị ốm đã từ chối việc này. Và một điều làm Hoài thắc mắc là trong số các bạn, Hoài không thấy sự có mặt của Loan và cũng không thấy ai nhắc đến tên Loan cả, mãi sau này các bạn mới cho biết, Loan đã đi nước ngoài bảo vệ luận án tiến sỹ y khoa.

Đã qua hai lần thằng Hùng bị bắt cóc rồi, nên từ giờ trở đi, Hoài không bao giờ để cho nó rời xa nàng nửa bước, mặc dù lúc nào bên cạnh nó cũng có bé Hằng.
- Mẹ sợ gì vậy…Con nay cũng lớn rồi. Mẹ nhìn xem bé Hằng kìa, đâu có ai đi theo và giữ nó đâu.
Nghe thằng Hùng nói vậy, Hoài nghiêm mặt lại và nhìn nó:
- Người lớn còn bị bắt, con thì nhằm nhò gì. Mẹ cũng đâu có muốn tối ngày phải kè kè bên con chi cho mệt.
Và thời gian gần đây Hoài cảm thấy sức khỏe mình bỗng nhiên sa sút. Ở cái tuổi ngũ tuần này, cơ thể con người ta bắt đầu chuyển dần sang giai đoạn lão hóa. Những cơn đau khớp hành hạ Hoài triền miên, khiến cho việc di chuyển của nàng gặp rất nhiều khó khăn. Suy đi tính lại, cuối cùng Hoài phải sắm thêm một cái tủ nhỏ để vừa hạn chế đi lại, vừa có thêm chút đỉnh thu nhập qua việc bán vé số và thuốc lá. Đôi khi để thằng Hùng đi một mình, Hoài rất áy náy. Nhưng gần đây Hoài nhận thấy con mình cũng đã lớn và sắp bước qua lứa tuổi trưởng thành, nàng có ý định sẽ tìm cho con một công việc phù hợp, chứ nếu để cho nó mãi ngửa tay xin thiên hạ bố thí, lắm khi Hoài thấy nó cũng rất ngại ngùng. Nghĩ về tương lai của con, Hoài suy tính đến nhức cả đầu. Với thằng Hùng, ngay đến một chữ còn không biết, thì lấy đâu mà xin công tìm việc được. Và với độ tuổi của nó bây giờ, việc tìm học lấy đôi ba chữ là điều rất khó. Thỉnh thoảng Hoài cũng có nghe mấy chị bạn hàng xóm than thở nhiều về chuyện này. Chỉ vì muốn cho con cái học cao, đỗ đạt này nọ, mà không ít người phải chạy vạy ngược xuôi vay mượn tiền bạc. Cuối cùng mọi cái trở thành ‘xôi hỏng bỏng không’ khi cầm cái mảnh bằng đại học, cao đẳng về, đi xin việc không được vì không có tiền lót tay, không có kinh nghiệm... Thế là không ít gia đình phải mang nợ nần.
Một hôm vào giờ cơm tối, Hoài nghe thằng Hùng nói:
- Mẹ ơi, con tính xin đi làm công ở xưởng mộc, chớ đâu có ai lớn như con mà cứ đi ăn xin mãi, ngại chết đi được, may là thiên hạ họ thấy con tàn tật, họ còn rộng tay đấy.
- Ờ thì con thấy làm sao được thì làm. Nhiều lúc mẹ cũng đã nghĩ tới việc này.
Nhìn chân của con Hoài ái ngại:
- Nhưng liệu với chân của con thế kia, họ có nhận con vào làm không?
Hùng tươi cười:
- Con đã dò hỏi rồi, mẹ biết không. Ông bà chủ cơ sở rất tốt. Ông bà ấy chỉ nhận và giúp đỡ những người bị khuyết tật như con. Bé Hằng cũng đã được ông ấy cho vào phụ việc ở nhà bếp của xưởng.
Hoài tươi cười nhìn con:
- Ồ… Nếu được như vậy thì tốt quá!

Bé Hằng càng lớn càng ra dáng như một thiếu nữ, Hoài nhận thấy dường như gương mặt của nó đã thay đổi rất nhiều, những dấu vết khâu vá dị tật sứt môi khi trước cũng mờ nhạt dần. Trên mặt con bé Hoài nhận thấy có dấu hiệu của những loại kem trang điểm được sử dụng. Cơ thể của nó cũng đã phát triển đầy đặn. Gặp Hoài, nó nói chuyện trông chững chạc hơn, và hay tỏ ra thẹn thùng mắc cở mỗi khi Hoài hỏi chuyện.
Thằng Hùng cũng vậy, tuy chân có hơi khập khiễng nhưng độ này trông thấy nó to cao hẳn lên, giọng nói đã thay đổi và trở nên trầm đục. Nhiều lúc nó len lén ngồi ngắm mình trong gương, vô tình bị mẹ bắt gặp thì ngại ngùng đỏ mặt.
Bỗng một hôm Hùng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con thấy bé Hằng cũng đẹp gái lắm chứ bộ.
Hoài sững sờ nhìn con, nàng nhận ra nó đã bắt đầu có cái nhìn khác về người bạn gái của nó. Hèn chi mà lâu nay Hoài thấy nó ít quan tâm về mình như trước nữa, hóa ra nó đã để ý đến con bé Hằng rồi. Câu nói để đời mà trước đây Hoài đã theo học lớp dự bị hôn nhân, trong đó Thầy Giêsu chí thánh đã nói: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể” (St 2, 18-24). Hoài nghĩ rằng rồi cũng sẽ đến ngày con mình khôn lớn, trưởng thành. Nó như con chim đã đủ lông đủ cánh, nó phải được tung bay trong bầu trời ước mơ của nó, và không thể giữ nó ở bên mình mãi được.
Bất chợt Hoài buông tiếng thở dài. Vì một khi chấp nhận cho con, cho hai đứa được phép tìm hiểu nhau, có nghĩa là Hoài đã nghĩ tới chuyện tạo lập cho chúng nó một mái ấm, một gia đình riêng. Hoài hy vọng rằng hai đứa cùng cảnh ngộ, chúng nó sẽ yêu thương và gắn bó với nhau hơn. Mặt khác nàng cũng khuyên con mọi chuyện cần phải cân nhắc kỹ càng, và trong mối quan hệ nam nữ, không được để cho tình cảm nó vượt quá giới hạn.


Một người phụ nữ chạy xe tay ga dừng lại trước quầy vé số:
- Chị bán cho tôi mấy tờ.
Hoài rút vài xấp vé số đưa cho cô ấy và nói:
- Đây chị xem số nào đẹp thì mua giúp em.
Người phụ nữ lên tiếng:
- Số nào cũng được mà, hên xui.
Móc chiếc ví ra, người phụ nữ lấy tờ năm mươi ngàn trả cho Hoài, và cho mấy tấm vé số vào túi áo rồi nổ máy xe. Cô ấy vừa chạy được một khoảng, Hoài phát hiện chiếc ví của cô ta để quên trên mặt tủ. Hoài gọi với theo nhưng có lẽ cô ấy không nghe thấy. Một anh thanh niên cũng vừa ghé vào mua thuốc lá, Hoài thấy vậy bèn nhờ anh ta đuổi theo người phụ nữ.
- Cậu làm ơn đuổi theo cô mặc áo đỏ kia dùm chị với, nhanh lên kẻo cô ấy chạy mất.
Tưởng đâu là Hoài bị lừa, anh thanh niên nọ vù ga chạy thật nhanh và khi đã đuổi kịp, anh ta bèn cúp đầu chặn xe của cô ấy.
Vì phải thắng gấp, suýt chút nữa thì người phụ nữ bị té ngã. Cô ấy lườm lườm anh thanh niên:
- Này anh kia, chạy xe cái kiểu quỷ gì vậy. Bộ muốn chết hả?
Thấy anh thanh niên nọ chẳng những không giận mà còn cười, cô ấy tưởng rằng mình bị trêu chọc, liền xẵng giọng:
- Để tôi gọi cảnh sát, xem anh có còn cười được nữa hay không.
Nghe thấy thế, anh thanh niên tấp xe và dựng bên lề.
- Bà chị ơi, oan cho tôi quá! Chị bán vé số nhờ tôi đuổi theo chị, tôi không biết có chuyện gì, nhưng thấy chị ấy tàn tật tôi giúp cho chị ấy thôi mà.
Nghe thấy vậy, người phụ nữ lấy làm lạ và cũng không hiểu vì sao. Bỗng nhiên cô ấy la lên:
- Ồ đúng rồi, tôi để quên cái ví, hèn chi…tôi bị lầm, xin lỗi. Cám ơn anh nhé.
Từ xa Hoài thấy hai người nói chuyện, cứ tưởng họ đang cãi nhau. Cuối cùng thì người phụ nữ ấy cũng quay xe lại. Cô ấy nhìn Hoài và nói:
- Cho tôi…xin…
Nói tới đây thì Hoài thấy cô ấy im lặng và nhìn mình chằm chằm.
- Hoài…Có phải Hoài đó không?
Nghe cô ấy gọi đúng tên của mình, Hoài giật mình. Nàng ngước mắt lên quan sát đoạn la lên:
- Loan…Có phải bác sĩ Loan?
Nhận ra bạn học cũ, Hoài quên mất là mình chỉ còn một chân, nàng đứng phắt dậy định ôm lấy Loan. Chiếc xe lăn bất ngờ bị dịch chuyển ra xa và Hoài ngã lăn đùng ra đất. Loan thấy vậy quên luôn cả việc gạt chân chống xe, mặc cho chiếc xe đổ ào ra đường. Cô ấy chạy lại và ôm chầm lấy bạn mình. Những giòng nước mắt của tình bạn, của kỷ niệm thời sinh viên đua nhau thấm đẫm trên hai khuôn mặt. Nhìn thấy người bạn cũ của mình chỉ còn lại một chân, Loan sững sờ và gào to:
- Chân của mày…chân của mày bị sao thế hở Hoài?! Trời ơi tao không ngờ sau bao nhiêu năm xa cách, giờ gặp lại nhau, mày trở nên nông nỗi này!
Một số người đi đường, tưởng có chuyện gì đã xảy ra với hai người bèn dừng lại. Nhưng khi biết chuyện họ lắc đầu nhè nhẹ và quay mặt bước đi.
Dìu đỡ Hoài lên chiếc xe lăn, Loan ngồi nhìn bạn mà hai hàng nước mắt không ngừng tuôn chảy. Vừa lau nước mắt Loan vừa nói:
- Chuyện gia đình tụi mày đổ vỡ, tao có nghe, nhưng tao vẫn chưa tin. Và giữa tao với mày xảy ra bất bình là vì trước đây, tao đã khuyên mày giết bỏ thằng nhỏ. Do đó tao rất ngại ngùng, nên cũng không mấy quan tâm về những gì đã xảy ra với gia đình mày… Tưởng rằng hôm nay gặp lại mày, mọi chuyện không đến nỗi nào… Ngờ đâu nó quá thê lương như vậy! Tha lỗi cho tao nghe Hoài.
Nghe bạn mình nói, Hoài cũng chỉ biết im lặng ngồi khóc. Bao nhiêu chuyện đau buồn bấy lâu, nàng đã cố gắng quên đi và chôn chặt nó tận đáy lòng, nay bỗng dưng Loan khơi gợi lại, Hoài nghe mà tan nát cõi lòng.
Thấy Hoài không nói gì cả, tưởng bạn còn buồn tức mình, Loan năn nỉ:
- Thôi cho tao xin…ngàn lần cho tao xin lỗi.
Loan nói tiếp:
- Từ sau lần cuối cùng tụi mình gặp nhau, tao cũng chưa bao giờ gặp lại An cả, chỉ nghe nói chàng ta tằng tịu với cô nhân viên kế toán nào đó ở công ty, và cả hai cùng bị đuổi việc.
Quay qua Hoài, Loan hỏi tiếp:
- Vậy lâu rồi mày có gặp lại An không?
Hoài lắc đầu:
- Mày hỏi thì tao nói, thực ra có cần thiết phải gặp lại những con người lòng lang dạ thú như vậy không?
Loan không ngờ khi Hoài và An, hai đứa bạn của mình đã có một thời học chung với nhau, đã từng yêu nhau và chung sống với nhau… Nay lại xem nhau như kẻ thù không đội trời chung, và Loan thấy với tình hình này rất khó để họ hàn gắn lại, cũng như tha thứ cho nhau.
Loan nói thêm như để bào chữa cho An:
- Biết đâu hồi đó vì thương con, An không muốn nó sinh ra bị tàn phế, bị người đời hất hủi.
Hoài không chịu thua:
- Mày nói chuyện này ra tao rất hiểu, nhưng đó cũng chỉ là cái cớ để che đậy lòng dạ xấu xa của mình mà thôi. Một khi đã vất vả trồng lên một cái cây ăn quả, ai ai cũng muốn rằng cây ấy sẽ sinh ra cho mình những loại trái tốt, ngon ngọt. Nhưng chẳng may có lẫn vào một vài quả xấu, hư thối, biến dạng…không lẽ người ta đốn bỏ cả cây đó đi à. Trên đời này đâu có ai ngu xuẩn đến độ nuôi nấng và ôm ấp hoài bão trong mười năm, hai mươi năm…để rồi khi đã thành tựu, chỉ cần một ngày phá bỏ. Thằng Hùng đứa con trai của tao, cũng là kết quả của tình yêu, của hạnh phúc mà vợ chồng tao đã vun vén lên…đâu phải chỉ trong một sớm một chiều giết bỏ nó đi là xong đâu, giết bỏ nó tức là chối bỏ hạnh phúc và tình nghĩa vợ chồng, là tội ác…mày hiểu chưa hả Loan? Nếu hôm nay mày cũng như An mà gặp được thằng Hùng, tao nghĩ rằng ít nhiều gì những người đã có ý định muốn loại bỏ nó, muốn nó không được làm người sẽ…sẽ rất hối hận. Loan à, đời này không ai học được chữ ngờ. Nhưng riêng tao, thì tao nghĩ rằng với thằng Hùng, nó là chữ ngờ mà mày và An phải học, phải đối diện đấy.
Hoài nói tiếp:
- Tuy lúc này nó sống như không có cha, nhưng nó rất mãnh liệt. Nó bị tàn nhưng không bị phế đâu, Loan à. Chưa chắc gì những đứa đầy đủ và hoàn hảo đã được như nó. Một quyết định, một sự bỏ đi đầy ngu xuẩn và quá sai lầm, cho những người làm bố như An.
Loan nghe Hoài nói mà như có muối xát ở trong lòng. Thật sự Hoài rất đúng và rất đáng thương, vì Hoài cũng đâu muốn mọi chuyện  xảy ra như vậy. Loan an ủi Hoài:
- Thôi đàng nào thì nó cũng đã xảy ra rồi, nghĩ ngợi chi cho thêm buồn. Hãy để dành sức mà lo cho bé Ngọc Hương và thằng Hùng. Và bản thân mày cũng vậy, tao thấy mày gầy ốm và tiều tụy quá rồi.
Loan ngập ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Còn cái này, vì là chỗ bạn bè thân thiết nên tao hỏi thiệt nhé, mày không phải ngại ngần gì cả. Mày có cần thêm sự trợ giúp của bạn bè không?
Không cần phải đắn đo, Hoài nhanh chóng đáp lời Loan:
- Tao cám ơn mày nhiều. Trời thương mẹ con tao vẫn sống qua ngày được.
Thời gian cho lần gặp gỡ bất ngờ cũng đã lâu, Loan ôm lấy Hoài thật chặt và chào từ biệt Hoài. Trước khi nổ máy xe, Loan móc ít tiền trong ví ra và dúi vào tay Hoài:
- Cho mình gởi các cháu chút quà.
Hoài gạt tay Loan và tỏ vẻ không muốn nhận. Loan thấy vậy trách Hoài:
- Tại sao tao muốn dành một chút tình cảm với các cháu mà mày cũng từ chối?
Hai người còn đang giằng co thì bỗng nghe thấy tiếng của thằng Hùng:
- Mẹ ơi, con đã xin được việc rồi, và qua tuần con sẽ đi làm.
Nói tới đây thằng Hùng quay qua nhìn Loan:
- Cô mua giúp mẹ con cháu tờ số. Cám ơn Cô.
Loan giật mình vì không biết thằng bé đang nói với mình, có phải là thằng Hùng con của An và Hoài không? Hoài biết được thắc mắc của Loan bèn lên tiếng:
- Cháu nó đấy.
Đoạn Hoài nói với thằng Hùng:
- Con chào cô Loan đi, cô ấy là bạn học khi trước với mẹ.
Vì thời gian không còn nhiều, nên Loan chào từ biệt hai mẹ con Hoài:
- Tao sẽ rủ các bạn ghé thăm nhà mày, chịu hông?
Hoài mỉm cười giơ tay vẫy chào bạn mình:
- Ừ, thích thì chiều.

Thời gian lẵng lặng trôi, mới đó mà Hùng đã vào làm ở xưởng mộc được một tháng. Công việc cũng nhẹ nhàng phù hợp với bản thân nó. Sự chăm chỉ cần mẫn của nó đã làm hài lòng ông bà chủ, thỉnh thoảng đi chơi xa về, họ cũng hay mua chút quà biếu cho mấy mẹ con. Hoài thấy vậy luôn dặn dò con:
- Người ta đã giúp đỡ và đối xử tốt với nhà mình, con cố gắng đừng để phụ lòng họ nhé.
Hôm nay là ngày cuối tháng, ông bà chủ gọi Hùng vào và trả lương cho nó. Cầm trên tay những đồng tiền của tháng lương đầu tiên trong cuộc đời. Nó cảm động đến ứa nước mắt:
- Con xin tạ ơn Chúa Mẹ, tuy thân con tàn tật, nhưng các Ngài đã nâng đỡ và giúp sức cho con.
Sau đó nó trao hết số tiền cho Hoài, mắt nó ánh lên một niềm tin:
- Từ nay mẹ con mình không lo bị đói nữa rồi. Con sẽ cố gắng làm thật nhiều tiền để mẹ được nghỉ ngơi, không còn phải đi bán vé số nữa. Và con…
Hoài nắm tay con tươi cười:
- Con trai yêu quí của mẹ. Mẹ cám ơn con rất nhiều. Mẹ vẫn còn khỏe, mẹ sẽ tiếp tục đi bán vé số cho đến khi nào con có tin vui thì lúc ấy mẹ sẽ nghỉ ngơi.
 Hùng thật thà:
- Tin vui gì hở mẹ?
Hoài dí tay vào trán con mắng yêu:
- Sao con khờ thế! Bé Hằng đấy...đấy…
 Hùng nhéo mẹ:
- Mẹ chỉ khéo trêu con. Ai người ta thèm lấy một thằng què như con.
Hoài nhìn con âu yếm:
- Dễ gì mà lấy được thằng què con của mẹ, phải hông?
Tình cảm của Hùng và bé Hằng ngày càng thắm thiết, và vì cùng làm chung một xưởng, nên ngày ngày hai đứa vẫn chờ đợi nhau, cùng nắm tay nhau đi làm và đến bữa thường cùng ngồi ăn chung một mâm. Cả hai đều mơ ước rồi sẽ có một ngày được nên duyên với nhau.
Phần Hoài thì nàng cũng muốn được một lần đến trại cô nhi, để hỏi thăm các Dì Phước về gia cảnh, về cha mẹ của bé Hằng, nhưng chưa tìm được dịp nào thuận tiện.
 Và từ sau lần gặp gỡ Loan, các bạn bè đã biết đến Hoài nhiều hơn. Sự giúp đỡ của các bạn dành cho mẹ con Hoài cũng được gởi đến dồn dập hơn. Người thì đến trực tiếp, người chưa đến được thì gởi tặng dưới nhiều hình thức. Nhưng trong đó phải kể đến một món quà làm Hoài cảm động nhất, đó là chiếc xe máy hiệu Honda ba bánh dành cho người tàn tật. Nó là cả một khối tài sản lớn đối với Hoài, và với những người có hoàn cảnh như Hoài, mơ ước có được nó thật không phải là điều dễ dàng chút nào. Với chiếc xe máy này, việc di chuyển của Hoài cũng thuận lợi và nhanh chóng hơn. Vì thế thu nhập từ việc bán vé số cũng được tăng lên đáng kể. Hôm nào cảm thấy mệt thì Hoài ngồi ở tủ bán, và nếu khỏe hơn chút đỉnh thì nàng lại xách xe chạy rảo quanh khắp xóm làng.

Cuối cùng thời gian chấp hành án phạt tù của An cũng đã kết thúc, sau mười năm ngồi bóc lịch trong bốn bức tường vì những tội ác tày trời của mình. Không biết những đêm dài không ngủ trong nhà giam, lương tâm của An có bị cắn rứt không? Anh ta có hối hận vì những suy nghĩ đê tiện của mình không? Một số người nhận thấy sau ngày mãn án, An trở về nhà của bố mẹ đẻ là ông bà Tiến và cư ngụ ở đó. Rất ít khi thấy anh ta bước chân ra ngoài, và cũng không ai biết được anh ta đang làm việc gì…Theo một số người nhận định, có thể do mặc cảm tội lỗi đè nặng vì những việc làm vừa qua, đã khiến An trở nên ngại ngùng và không dám xuất đầu lộ diện.
 Phần Hoài, kể từ sau ngày nàng và các con bị An ruồng rẫy và bỏ rơi đến nay, nàng cũng chưa hay nói đúng hơn là nàng cũng không muốn gặp lại bất cứ ai trong gia đình ông bà Tiến. Hoài nghĩ rằng đâu cần phải gặp họ làm chi nữa; khi chính họ là những kẻ vô tâm, ăn ở bạc bẽo, đã gây nên cho nàng nhiều bi thương và oán hận. Họ có thể chối bỏ thằng Hùng vì lấy lý do là nó bị dị tật, nhưng còn lại bé Ngọc Hương, nó là một trong những giọt máu của gia đình họ Trần, nó bé bỏng, nó ngây thơ, nó vô tội…Ấy thế mà họ đang tâm cắt đứt mọi quan hệ huyết thống và ly gián nó. Nhiều lúc con bé thật thà hỏi mẹ:
- Ông nội, bà nội đâu hở mẹ? Và cả bố con nữa?
 Thương con trẻ, Hoài chỉ nghẹn ngào lắc đầu và quay đi chỗ khác, mặc cho bé Ngọc Hương đang nhõng nhẽo vì chưa được mẹ trả lời.

Chiều cuối tháng nào cũng vậy, khi đã nhận được tiền lương đầy đủ, bao giờ Hùng cũng đòi mẹ phải làm cơm và mua nhiều thức ăn thật ngon, vì nó muốn đãi mẹ và bé Ngọc Hương, để bù lại những gì mà trước kia lúc gia đình còn nghèo khổ, nó chỉ dám đứng nhìn người ta ăn và nuốt nước bọt mà thôi.
- Mẹ ạ, tiền lương con đưa mẹ mua ít thức ăn ngon cho cả nhà nhé. Số còn lại mẹ cất giữ phòng khi nhà mình có việc gì cần nghe.
Hoài trêu con:
- Thế con không cầm một ít đặng dẫn bạn gái đi ăn chè à?
Biết mẹ trêu mình, Hùng cười và nói:
- Bạn gái của con…không cần ăn chè, nó vẫn thương con hì hì.
Bỗng Hùng lại ngồi gần bên Hoài hơn, Hoài chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì đã thấy Hùng nói:
- Mẹ ơi, mấy ngày vừa qua, con thấy ông bà chủ có nhận thêm một người đàn ông vào làm việc. Nhìn thấy ông này con hơi nghi nghi.
Hoài tỏ vẻ lo lắng khi nghe con nói:
- Con nghi điều gì?
- Con thấy ông này có khuôn mặt rất giống với mấy người đàn ông trong bọn bắt cóc, và buôn bán nội tạng người.
- Chắc con nhìn lầm đấy, bọn xấu đó đã bị bắt và đi tù hết rồi mà.
Thằng Hùng vẫn khăng khăng:
- Chính ông này cùng với những người khác, trước đây đã bắt cóc con và bé Hằng.
Hoài căn dặn con:
- Chuyện người giống người, đôi khi mình có thể nhìn lầm. Nhưng dù có đúng hay sai, mẹ khuyên con phải cẩn thận nghe, lắm khi họ giả vờ làm người lương thiện, chờ cơ hội đến là lại làm điều bất chính. Thế người đàn ông này có bao giờ nói chuyện với con không?
- Sao mẹ hỏi kỳ vậy? Ông ấy cùng làm một dây chuyền lắp ghép giường ngủ với con, đương nhiên là phải tiếp xúc, phải nói chuyện rồi. Con thấy ông ấy làm việc rất chăm chỉ, nhưng chẳng hiểu vì sao, thỉnh thoảng ông ta hay nhìn trộm con hồi lâu. Lúc đầu con cũng thấy sờ sợ, nhưng sau đó con nghĩ rằng tại mình cứ nghĩ ngợi lung tung, chứ còn việc người ta nhìn mình cũng là chuyện bình thường thôi mà.
Thấy con nói vậy, Hoài cũng tạm yên lòng, nhưng vẫn nhắc lại với con:
- Nghe lời mẹ nhé, cẩn thận vẫn hơn con à.
- Vâng mẹ đi nghỉ đi, đừng quá lo lắng nữa.
Nằm trên giường tuy nhắm mắt lại, nhưng Hoài trằn trọc mãi. Những lời mà thằng Hùng vừa nói khiến nàng không thể ngủ được. Nàng chợt nghĩ: Có khi nào người đàn ông ấy lại là An? Hay là anh ta đã nhận ra đứa con của mình, khi trông thấy nó cùng đi với Hoài, lướt ngang qua trước mặt anh ta trong khu nhà giam của cảnh sát biên phòng? Việc anh ta xin vào làm công ở xưởng mộc là tình cờ hay hữu ý? Nếu chỉ là một sự tình cờ thì không phải bận tâm và không có gì để nói. Nhưng nếu nói là có chủ đích, thì ý định của anh ta là gì? Và anh ta sẽ đối xử như thế nào, một khi đã biết chắc thằng Hùng chính là đứa con ruột thịt máu mủ của mình. Và nếu vậy thì anh ta còn tìm đến nó, cũng như tìm đến gia đình này làm chi nữa… Khi chính anh ta đã đẩy đưa vợ con mình vào thảm cảnh như thế này.
Nằm trăn trở mãi cũng đến thế mà thôi, Hoài giơ tay che miệng ngáp và ngồi dậy.
- Ủa nãy giờ con tưởng mẹ đã say giấc mộng rồi?
Hoài trả lời con:
- Ừ kể cũng lạ thật, chưa bao giờ mẹ thấy mình khó ngủ như hôm nay!
Hùng thắc mắc:
- Vậy có chuyện gì làm mẹ khó ngủ, kể con nghe với.
Hoài im lặng hồi lâu rồi đưa tay ra dấu cho con lại gần mình và nói:
- Mẹ muốn nhờ con giúp mẹ chuyện này.
- Chuyện mà mẹ muốn nhờ con có quan trọng không hở mẹ?
- Quan trọng chứ, sau này con sẽ hiểu. Nhưng bây giờ con có giúp mẹ được không?
Hùng sợ mẹ giận, bèn thưa:
- Dạ…cũng được.
Hoài nói chậm rãi từng tiếng, như muốn cho thằng Hùng nghe thật rõ và đừng quên:
- Hôm nào vui vui, con giả vờ hỏi thăm người đàn ông ấy, xem con cái của ông ta thế nào, mà lại để ông ấy phải đi làm thuê làm mướn như vậy.
Hùng mỉm cười:
- Ồ…con tưởng có gì quan trọng, chuyện đơn giản như thế mà nó cũng làm mẹ mất ngủ à?

Đúng với những gì Hoài suy nghĩ, sau khi ra tù, An về nhà bố mẹ ruột ẩn nấp một thời gian. Suốt ngày cứ ăn không ngồi rồi, ai nhìn vào mà không chán. Cuối cùng anh ta phải mặt dày mặt dạn bước chân ra ngoài tìm việc.
Lách qua tấm bảng ‘ cần người phụ’ treo ngay cổng ra vào, An gặp người quản lý của xưởng mộc, nơi Hùng và bé Hằng đang làm. Không biết họ đã trao đổi với nhau như thế nào, chỉ biết là sau đó thì An đã được nhận vào làm cùng dây chuyền với Hùng. Ngay từ buổi ban đầu gặp mặt, An và Hùng đã nhìn chằm chằm vào nhau, dường như hai người cũng đều nhận thấy và đều có chung suy nghĩ là đã từng gặp nhau ở đâu đó rồi…Riêng với An, thì anh ta thấy Hùng giống hệt thằng bé, đã đi cùng với Hoài tại đồn biên phòng. Tuy mới chỉ nhìn thoáng qua, nhưng nó đã làm cho An phải suy nghĩ rất nhiều…Thằng bé đi chung với Hoài có phải là đứa con của Hoài hay không? Nếu đúng như vậy thì nó chính là con của mình và Hoài? Mọi chuyện đối với An lúc này cứ rối như mớ bòng bong. Và không riêng gì Hoài, An cũng đã từng có ý định sẽ hỏi thăm thằng Hùng về gia cảnh và về bố mẹ của nó.
Đã đến giờ cơm trưa, như mọi ngày bé Hằng vẫn ngồi ăn chung với Hùng. Và khi đi ngang qua chỗ An, bất chợt bé Hằng đứng sửng lại và nhìn An chằm chằm. Bị phát hiện, bé Hằng vội quay mặt lãng sang hướng khác và sau đó nó bước lại nơi Hùng đang ngồi.
Ghé vào tai Hùng, bé Hằng nói nhỏ:
- Anh Hùng có nhìn thấy ông mới vào làm kia giống ai không?
Thằng Hùng tuy chưa nắm rõ được lai lịch của người đàn ông mà bé Hằng vừa nhắc tới, nhưng thấy bé Hằng hỏi vậy, nó liền làm bộ trêu bé Hằng:
- Ối giời ơi, hơi đâu mà để ý. Người không giống người thì giống ai.
Bé Hằng xìu ngay nét mặt:
- Không, em nói chuyện nghiêm túc ấy. Anh có nhớ bọn người bị bắt ở đồn biên phòng không? Lão ta giông giống một người trong bọn họ.
Biết là bé Hằng cũng có nhận xét trùng hợp với mình, Hùng gật đầu:
- Thì anh cũng thấy vậy. Nhưng thôi ăn cơm đi kẻo muộn giờ làm. Chuyện người ta nhìn giống hệt nhau là bình thường mà.
Tuy nghe Hùng nói vậy, nhưng bé Hằng vẫn ấm ức trong lòng:
- Em sẽ theo dõi lão này.
Tiếng kẻng báo hiệu ca làm việc buổi chiều vang lên. Hùng cười hóm hỉnh:
- Thôi xin chào thám tử.
 Sau cái nguýt dài của bé Hằng, Hùng bước vội vàng ra chỗ làm.
Phần An, sau khi nhìn thấy thằng Hùng và bé Hằng, anh ta cũng hơi chột dạ, vì trông hai đứa bé này rất quen. Sợ hành tung của mình che giấu lâu nay bị bại lộ, nên An phải tìm mua cái khẩu trang đeo vào che bớt khuôn mặt lại, với lý do bụi gỗ quá nhiều.
Từ sau ngày Hoài nhờ con hỏi dò về An đến nay đã hơn mười ngày, vẫn chưa thấy con trả lời. Sau giờ cơm tối, Hùng đang nằm nghỉ trên chiếc võng treo nơi góc nhà, Hoài lân la đến gần nó và hỏi:
- Thế việc mẹ nhờ con đã làm chưa?
Hùng trả lời mẹ:
- Mấy ngày này, con thấy ông ta cứ né tránh và ít nói chuyện với con.
Sau đó Hùng kể lại cho mẹ nghe việc bé Hằng cũng đã nói với nó về người đàn ông đó. Hoài nhận định, nếu chỉ một mình thằng Hùng thì còn có thể lầm lẫn, đàng này cả hai đứa chúng nó đều có chung một cái nhìn. Không lẽ người đàn ông ấy là An?
Vài ngày sau bé Hằng cười và nhìn Hùng với vẻ mặt gật gù đắc chí:
- Hãy nhìn xem thám tử của anh đây nè.
Nói xong bé Hằng chìa ra ngay trước mặt Hùng một tấm hình. Đưa tay cầm lấy tấm hình và chỉ cần liếc qua thôi, nó đã làm Hùng giật mình. Người trong tấm hình mà bé Hằng vừa đưa, không ai khác ngoài người đàn ông cùng làm chung với Hùng.
- Làm sao mà em có được tấm hình này?
Bé Hằng cười to:
- Thì em chụp được. Hôm nọ em thấy đứa bạn gần nhà có cái máy, em hỏi mượn. Và sau đó canh me lúc lão ta không để ý là bấm liền.
- Thôi nói khe khẽ chứ, lỡ may lão ấy biết được thì hỏng hết việc. Cho anh mượn tấm hình này về cho mẹ xem nhé.
Tan ca chiều, Hùng chạy ngay về nhà. Vừa bước chân tới hè, nó liền gọi to:
- Mẹ ơi…mẹ.
Nghe thằng Hùng gọi, Hoài cứ ngỡ là việc mình nhờ nó đã làm được.
- Nào có chuyện gì cứ thư thả kể mẹ nghe coi.
Hùng rút tấm hình trong túi ra và đưa cho mẹ. Hoài bàng hoàng khi nhận ra người đàn ông trong tấm hình mà thằng Hùng vừa đưa, không ai khác chính là An. Bàn tay nàng bỗng run lên làm tấm hình rơi xuống đất. Hùng cúi xuống nhặt lên và hỏi mẹ:
- Tay của mẹ bị làm sao vậy? Hay là mẹ mệt để con dìu mẹ đi nghỉ nhé.
Sợ con phát hiện ra cái điều mà Hoài vẫn không muốn cho nó biết. Vì từ trước đến giờ, Hoài chỉ nói cho hai đứa con của mình là bố nó đi lính bị thất lạc mà thôi. Nàng nói nhỏ:
- Ừ, tự nhiên mẹ thấy chóng mặt quá.
Vậy là chính xác rồi, giờ lại phải tìm cách để đối phó với những tình huống trớ trêu sắp tới đây… Nằm trên giường, Hoài gác tay lên trán và nhắm mắt lại suy nghĩ.

Tình cảm giữa thằng Hùng và bé Hằng ngày một nẩy nở. Thương con, nhưng ngặt nỗi nhà mình nghèo quá, biết lấy gì mà lo cho chúng nó bây giờ. Tiền lương mỗi tháng thằng Hùng đưa về, Hoài đâu có dám tiêu xài, chỉ mong sao dành dụm được chút đỉnh hòng mai mốt lo cho nó mà thôi. Mà đâu phải chỉ lo đám đình là xong, cưới nhau về chúng nó cũng phải có một số vốn nho nhỏ để làm kế sinh nhai chứ. Thật tội nghiệp…cả hai đứa cùng rơi vào hoàn cảnh đáng thương.
 Một ngày nọ Hùng khoe với mẹ:
- Mẹ ơi. Ông bà chủ xưởng mộc thương chúng con lắm, ông bà ấy bảo là hai đứa lấy nhau đi, ông bà sẽ giúp cho.
- Thế con nói với ông bà ấy những gì?
- Con chỉ cám ơn ông bà ấy. Và con nói khi nào đám cưới thì chúng con sẽ cho ông bà ấy biết.

Những ngày nghỉ tết đã trôi qua, mọi người đều tụ họp đông đủ tại xưởng mộc. Nhìn quanh quẩn Hùng vẫn chưa thấy bóng dáng của người đàn ông làm cùng, hỏi thăm mọi người ai cũng lắc đầu không biết. Nhà ông ta ở đâu? Vợ con ông ta thế nào? Tại sao giờ này vẫn chưa đến làm? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra, nhưng đâu có ai biết gì về ông ta mà trả lời. Ngay cả ông bà chủ xưởng mộc cũng vậy, thương người và muốn giúp đỡ người, do đó ai gặp khó khăn trong công việc, ông bà đều cho vào làm hết, thế nên bây giờ ông bà chủ cũng mù tịt về lai lịch của người đàn ông ấy. Và ông bà chủ có quan niệm là người ta làm tốt công việc được giao, và trong quan hệ tình cảm không xảy ra điều gì phức tạp là tốt đẹp lắm rồi.
- Thôi thông cảm, có lẽ ông ấy bận việc gì nên chưa thể tới được.
Ông bà chủ nói xong, mọi người ai nấy đều bắt tay vào công việc của mình.
Thì ra những ngày qua An vắng mặt là vì chàng muốn thấy lại đứa con của chàng với Lý. Qua bác sỹ Loan, người bạn học năm xưa. An mới hay là sau khi Lý sanh được một đứa con gái, cháu nó bị sứt môi hở hàm ếch, riêng Lý thì do thường xuyên bị đau yếu, nên đã gởi nó vào trong cô nhi viện và nhờ các Dì Phước trông nom. Ở trong này được một thời gian, con bé đã trốn đi ra ngoài, và không ai biết được nó đã đi đâu, các Dì cũng đi tìm nhưng không có kết quả. Và khi nghe tin Lý đã mất sau một thời gian đau nặng, An bủn rủn chân tay và ngồi bệt xuống ghế. Chàng không ngờ những gì còn lại trong mình bây giờ, là một nỗi đau đớn cùng cực và một sự hối hận day dứt khôn nguôi.
Nước mắt ràn rụa, An muốn xem lại hình ảnh đứa con gái của mình:
- Vậy các Dì có còn lưu giữ lại hình ảnh của cháu không? Cho con xem với.
Sau một hồi chờ đợi, cuối cùng thì các Dì cũng lục tìm và đưa cho An xem. Tuy tấm hình đã ố vàng, nhưng nó vẫn làm cho An hoảng hốt không giữ được bình tĩnh. Các Dì thấy vậy bèn hỏi:
- Vậy ông đã biết cháu rồi chứ?
An ấp úng:
- Dạ chưa, nhưng nhìn hình con thấy nó giống với con bé cùng làm chung xưởng với con.
- Thế ông đã nhìn kỹ chưa?
- Dạ, không sai. Vì ngày nào con cũng gặp nó. Thế các Dì có thể cho con xin tấm hình này được không ạ?
- Hiện giờ chúng tôi chỉ còn có mỗi một tấm duy nhất. Nếu cần thì ông có thể đến đây vào một ngày khác, chúng tôi sẽ rửa thêm và đưa cho ông.
Trở về xưởng, An tìm gặp bé Hằng. An nhận thấy là so với đứa bé trong tấm hình của các Dì Phước, thì bé Hằng nhìn trông đẹp hơn nhiều. Tuy vết khâu khá thẩm mỹ nhưng nếu nhìn kỹ thì nó vẫn còn chút ít nếp hằn. Ngoài ra thì khuôn mặt nó cũng đâu đến nỗi như những em bé bị sứt môi hở hàm ếch mà thỉnh thoảng An vẫn thấy. Phần bé Hằng khi thấy người đàn ông cứ nhìn mình soi mói, cũng đâm ra e ngại và tìm cách lẫn tránh. Một vài lần An rón rén tiến đến sát ngay sau lưng nó, nhưng khi phát hiện thấy chàng, con bé vụt bỏ chạy nơi khác, khiến An không thể nói chuyện và hỏi han gì được cả.
Dịp may đã đến với An khi vào một ngày nọ bé Hằng bị điện giật. Số là đường dây điện của xưởng không hiểu vì sao bị tróc lớp vỏ bọc cách điện bên ngoài. Trời vừa mới đổ mưa xong, đoạn dây điện ấy lại nằm dưới đất. Do đó đất xung quanh vừa bị ẩm ướt, vừa bị rò rỉ điện. Sự việc này không ai để ý, vì ngày ngày vẫn có người đi qua đi lại khu vực này. Trông thấy bé Hằng đi qua, An dừng tay lại để ngắm nghía con bé mà chàng hy vọng đó là đứa con của mình với Lý. Bất ngờ An thấy bé Hằng co rúm người lại, run lên từng chập và ngã xuống. Theo qui định của xưởng mộc từ trước giờ, là bất cứ ai khi gặp sự cố gì mà chưa rõ nguyên nhân, điều đầu tiên là những người phát hiện ra sự việc, phải ngay lập tức tắt cầu dao điện.
Cầu dao điện vừa được hạ xuống, An thấy bé Hằng nằm im lìm bất động. Chàng ta vội tri hô và chạy ngay tới vực bé Hằng lên, đoạn ôm lấy con bé vụt chạy nhanh ra cổng. Hùng đang cúi xuống ráp mấy cái chân giường bỗng nghe tiếng hét to. Nó đứng bật dậy thấy người đàn ông làm cùng xưởng vừa bế thốc bé Hằng vừa chạy. Tưởng là bé Hằng lại bị gã này bắt cóc, Hùng vội vớ lấy một cây vuông bốn và đuổi theo, miệng nó hô to:
- Đứng lại…này ông kia đứng lại mau.
An nghe vậy cũng không hiểu chuyện gì, chàng khựng lại một chút rồi bế bé Hằng chạy tiếp. Một chiếc taxi vừa trờ tới cũng là lúc Hùng đuổi kịp. Giơ cây vuông bốn lên Hùng nhắm nhứ vào người đàn ông:
- Ông làm gì vậy…lại bắt cóc người phải không?
Vừa mệt đứt hơi, vừa sợ thằng Hùng hiểu lầm phang cây vào đầu thì khốn. An chỉ tay vào bé Hằng:
- Cô bé…bị…điện giật. Mau mau lên xe.
Tỉnh lại trong bệnh viện, người đầu tiên mà bé Hằng gặp là người đàn ông mà nó thường lẫn tránh. Nó không hiểu vì sao nó phải nằm ở đây, và người đàn ông mà nó không ưa thích và có cảm tình lại ngồi với nó. Hai bàn chân bé Hằng đỏ ửng và sưng tấy vì điện, cảm giác đau buốt làm nó rên khe khẽ. Người đàn ông vội lấy thuốc mỡ và bôi cho nó. Hùng chạy ra ngoài mua sữa cũng vừa về tới:
- Không có bác ấy phát hiện ra sớm, thì hôm nay em đã…không còn nữa. Chính bác ấy đã bế em lên và gọi xe đưa em vào bệnh viện kịp thời. Em mau cám ơn bác ấy đi.
Bé Hằng nhìn người đàn ông, giọng nó yếu ớt:
- Cháu…cám…ơn bác.
An nắm tay con bé:
- Trời thương không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa, thôi cháu nằm nghỉ đi. Bác phải về lại xưởng.
Ông bà chủ và mọi người trong xưởng cũng đã hay biết sự việc. Nhìn thấy An vừa từ bệnh viện trở về và biết là mọi thứ đã bình an, ai nấy đều ôm chầm lấy An và tỏ vẻ vui mừng.
An bước lại vũng nước nhỏ nơi bé Hằng vừa bị điện giật, chàng lôi sợi dây lên xem xét, và có một cái bóp nhỏ vướng vào dây điện cũng theo lên. Sau khi sửa chữa đoạn dây bị đứt xong, An cầm lấy cái bóp, lau khô những giọt nước trên đó đoạn cất trên nóc tủ. Nhưng có cái gì đó cứ thôi thúc An, khiến chàng không ngồi yên được, chàng đứng lên với lấy cái bóp và mở ra xem. Trong đó, ngoài những đồng tiền lương ra, An còn thấy có một cái túi nhỏ bằng nylong bọc quanh một tờ giấy. Lần giở cái túi ấy ra, An chợt sững người lại và không còn tin vào mắt mình nữa. Tấm hình mà bé Hằng đang cất giữ là tấm hình của Lý, nó đã bị ố vàng và mờ nhạt theo thời gian. Bất chợt An buông tiếng thở dài…bé Hằng chính là con ruột của mình và Lý. Nhưng để khẳng định lại một lần nữa cho chắc ăn, An sẽ tìm gặp và hỏi thăm bé Hằng sau khi nó đã ra viện. Dẫu sao bây giờ thì có lẽ nó cũng đã bớt sợ và xa lánh mình như những lần trước đây.

- Ái chà! Hôm nay có việc gì mà rồng đến nhà tôm sớm vậy?
An vừa bước chân vào tới cửa đã nghe tiếng Loan nói từ trong nhà vọng ra. Sở dĩ An tìm đến nhà Loan là muốn Loan giúp cho mình một vài việc.
- À lâu ngày quá, muốn ghé thăm các bạn chút mà, sẵn có tí việc muốn nhờ bạn giúp dùm.
- Vào đây uống nước đã, có gì tí hẵng hay. Ông xã đi trực rồi, nên ở nhà một mình cũng thấy buồn. May quá có cậu tới chơi.
Qua trao đổi với nhau một số câu chuyện. Loan cho An biết rõ về hoàn cảnh và nơi ở của mẹ con Hoài. Nhưng Loan cũng nói thẳng với An, là tình hình bây giờ theo suy nghĩ của Loan, An chưa nên vội gặp lại mẹ con Hoài, sẽ có nhiều cái bất lợi và nếu không êm xuôi thì sẽ chẳng bao giờ còn có cơ hội nữa.
Bỗng Loan nhìn An và nói:
- Thế cậu tính sao với đứa con của cậu và Lý. Cậu có tính đi tìm gặp nó không?
- Tớ đang nghi ngờ một con bé tên Hằng đang làm cùng xưởng mộc. Số là hôm đó nó bị điện giật, tớ bế nó đưa đi cấp cứu ở bệnh viện. Xong việc tớ về lại xưởng thì vô tình phát hiện thấy cái bóp của nó đánh rơi. Sau khi lau khô nước, vì tò mò nên tớ mở ra xem thử, thì phát hiện trong bóp của nó có tấm hình của Lý.
Nghe An nói vậy, Loan liền hỏi lại:
- Cậu có dám khẳng định đó là hình của Lý không?
An tỏ vẻ cương quyết:
- Cái gì thì tớ còn lầm lẫn, chứ việc nhận ra người đã từng chung chăn gối với mình, là điều quá dễ dàng.
Loan nhìn An và lắc đầu:
- Tớ thấy cậu sống như vậy thật là không phải với mọi người. Đối với Hoài đã từng là ước mơ của rất nhiều người. Tớ còn nhớ khi ấy cậu lấy được Hoài là phúc lớn cho cậu. Thế mà chuyện đâu có đến nỗi nào, để cậu phải đang tâm cắt đứt và bỏ đi cái hạnh phúc của mình, đẩy đưa vợ con mình xuống hố sâu của cuộc đời. Đứa con là niềm vui, là hoa quả của tình yêu vợ chồng…Cậu trả lời tớ đi, Hoài và kể cả cậu, đâu ai muốn con mình sinh ra phải chịu cảnh này nọ, nhưng số phận đã an bài, chẳng những cậu không dám chấp nhận, dám đương đầu mà lại gây ra thêm quá nhiều trái ngang cho mình và nhiều người.
An cúi đầu ngồi nghe người bạn gái nói mà lòng rối bời. Loan nói tiếp:
- Chính những người hết dạ yêu thương cậu, lo lắng cho cậu… cậu chẳng những không báo đáp, ngược lại còn gây ra cho họ quá nhiều đau khổ, cậu thử suy nghĩ lại đi. Bỏ mẹ con Hoài, cậu đi lăng nhăng phá hoại đời con gái người ta, phá nát đời cô Lý. Đến khi người ta có thai với cậu, cũng chỉ vì đứa bé không may mắn phải chịu mang trên mình những căn bệnh do con người, do chiến tranh, do hóa chất…gây ra. Cậu một lần nữa lại tàn nhẫn với người ta. An ơi, xưa kia cậu hiền lành, đẹp trai, học giỏi…đến ngay cả như tớ, tớ phải nói thật là tớ cũng thầm yêu trộm nhớ cậu, nhưng khi biết mình không có duyên như Hoài, đành phải che dấu và ôm nỗi tiếc nuối vào lòng. Và phải mất một thời gian dài sau đó tớ mới quên được cậu. Ấy thế mà không ai ngờ cậu lại thay đổi nhanh chóng như vậy! Cái máu sở khanh đã ăn sâu con người cậu từ bao giờ thế?
An ngẩng mặt lên nhìn Loan, gương mặt chàng ràn rụa nước mắt:
- Tớ biết lỗi của mình rồi.
Loan nhìn An:
- Chỉ chút xíu nữa thôi, nếu nghe cậu thì tớ cũng đã gây nên tội ác rồi, việc này Hoài rất đúng. Nếu Hoài không giữ lại đứa bé thì cậu đã phạm phải tội giết người rồi, mà lại giết ngay chính đứa con ruột của mình.
Nói tới đây, dường như câu chuyện đã làm cho Loan quá xúc động. Loan nghẹn ngào:
- An ơi! Hổ dữ còn không nỡ ăn thịt con, còn cậu…
- Vậy bây giờ Loan có cách nào giúp mình chuộc lại những lỗi lầm xưa kia không?
Loan ngập ngừng:
- Rất khó, vì Hoài đã nói với các cháu bé khi chúng nó hỏi về người bố của chúng.
 An sốt ruột:
- Thế Hoài đã nói những gì?
Loan nói chậm rãi và nhấn mạnh từng chữ một:
- Bố các con đã chết rồi.
Sau câu trả lời của Loan, An gục đầu xuống bàn.

Từ bệnh viện trở về xưởng mộc, người đầu tiên mà bé Hằng gặp chính là An. Sau khi nói vài lời cám ơn An xong, bé Hằng liền hỏi:
- Vậy bác có nhặt được cái bóp của con bị đánh rơi không? Nếu có cho con xin lại.
An đưa tay lên nóc tủ lấy cái bóp xuống:
- Có phải bóp của cháu đây không?
Nét mặt mừng rỡ, con bé nhận lại cái bóp từ tay An. Hai tay cầm lấy cái bóp và nó đưa vào ngực mình như muốn ôm ấp một cái gì quí giá lắm:
- Tiền bạc nếu có mất, cháu còn làm ra được. Chứ còn tấm hình này, nếu mất đi thì cháu sẽ ngàn đời nuối tiếc.
Nói tới đây, bé Hằng lôi từ trong túi áo ra một tấm hình củ rích, nó lấy vạt áo lau nhẹ tấm hình và đưa lên môi hôn. Đoạn nó khoe với An đây là hình của mẹ nó và đưa cho An xem. Cầm tấm hình của Lý trên tay, An quá đỗi bàng hoàng và như không thể tin vào mắt mình đây là sự thật: Đứa bé hiện đang đứng trước mặt chàng, nó chính là đứa con của chàng và Lý.
An tuy đã biết rõ trong bóp có những gì, nhưng chàng cũng làm bộ hỏi:
- Thế người trong tấm hình là gì với cháu vậy?
Đôi mắt buồn xa xăm, bé Hằng trả lời An:
- Đây là hình của mẹ cháu. Và mẹ cháu đã…
An cắt ngang lời bé Hằng:
- Đây là hình của…mẹ cháu. Đúng không?
Bé Hằng nói tiếp:
- Vâng, đúng thế. Bác đừng vội, từ từ cháu sẽ kể cho bác nghe. Một lần nọ khi vào thăm cháu, mẹ bảo với cháu là cất giữ tấm hình của mẹ cho cẩn thận nhé. Và cháu cũng không ngờ đó là lần cuối cùng được gặp mẹ. Vì sau đó thì mẹ đã ra đi mãi mãi mà không nói với cháu thêm một lời nào nữa, thật tội nghiệp cho mẹ phải vất vả cả đời vì cháu, đến lúc chết cũng cô đơn hiu quạnh.
- Vậy còn ba của cháu đâu? An hỏi nhỏ.
- Dạ cháu nghe mẹ nói ba là một con người lừa đảo và ác độc. Khi mẹ sắp sinh, ba biết cháu bị bệnh liền bỏ rơi cả hai mẹ con.
Nghe bé Hằng nói An như chết điếng trong lòng. Chàng muốn ôm chầm lấy con bé và nói với nó ngàn lời xin lỗi, nhưng đôi chân chàng như bị chôn chặt xuống đất. Tội lỗi do mình gây ra quá lớn, và hậu quả ngày hôm nay là lương tâm luôn bị cắn rứt giày vò. An quay mặt che dấu những giọt nước mắt đang chực chảy ra.
Bé Hằng lấy làm lạ và không hiểu vì sao bác ấy Bỗng dưng, thấy người đàn ông xa lạ ngồi khóc sau khi mình kể chuyện,:
- Ủa có gì buồn làm bác khóc vậy?
- À…Nghe chuyện của cháu, bác cảm động quá!

Đã gần mười năm, tính từ ngày bé Hằng trốn ra khỏi cô nhi viện đến nay. Lâu lắm rồi, Hằng chưa có dịp ghé lại thăm các Dì ở đây. Lúc còn bé thì có vài lần nó đi ngang qua đó, cũng muốn ghé vào thăm các Dì, nhưng sợ các Dì ấy bắt đưa vào lại, nên nó cũng chỉ đứng nhìn chốc lát rồi bỏ đi. Quãng đời tuổi thơ của nó đã chôn chặt với cô nhi viện, nơi nó đã từng ăn, ngủ và vui đùa với các bạn. Do đó nó cũng rất nhớ các bạn và luôn ao ước sẽ có một ngày được trở về đây gặp lại các bạn.
- Con chào Dì ạ.
Đang quét dọn những chiếc lá rơi rụng ngoài sân, Dì Hiền nghe có tiếng ai đó đang chào mình. Ngẩng mặt lên Dì khẽ cười chào lại bé Hằng.
- Thế con là ai? Và con tìm Dì có việc gì không?
Đúng là thời gian qua nhanh, nó đã làm thay đổi mọi cái. Ngay cả Dì Hiền, người đang đứng trước mặt Hằng đây, khi xưa Dì thường xuyên chăm nom cho Hằng từ miếng cơm manh áo, lo cho Hằng từ chiếc chăn để đắp, sợ Hằng bị cảm lạnh mỗi khi đông về. Ấy thế mà hôm nay, tuổi già đã làm cho Dì không còn nhớ nhiều về những gì đã qua.
- Dì ơi. Con là Hằng, con bé Hằng bị sứt môi hở hàm ếch năm xưa ấy. Dì còn nhớ không?
Sửa lại cái gọng kiếng đang dần trôi xuống trên sóng mũi, Dì Hiền ngước nhìn Hằng quan sát một lần nữa và nhíu mày suy nghĩ.
- Hằng, con bé Hằng bị sứt môi hở hàm ếch, con của mẹ Lý đúng không?
Thấy Dì Hiền đã mường tượng ra mình. Bé Hằng nhảy cẫng lên:
- Đúng rồi, con đây. Con tưởng là chuyến này về thăm sẽ chẳng ai nhận ra con nữa chứ.
- Ôi chao mau lớn quá! Dì cũng không thể ngờ.
Bước chân vào nhà khách, bé Hằng mở túi xách lấy quà ra biếu Dì Hiền. Dì cảm động nắm tay Hằng:
- Còn nhớ tới các Dì và về thăm là tốt rồi. Dì cám ơn con nhiều.
Sau đó Dì Hiền và bé Hằng ngồi nói chuyện và ôn lại những chuyện đã qua. Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của thời thơ ấu đua nhau tràn về. Chợt nhớ tới các bạn cũ, Hằng vội hỏi:
- Vậy các bạn của con lúc này thế nào?
Mỉm cười Dì Hiền nói:
- Các bạn của con, nhiều đứa trưởng thành đã về lập gia đình, có đứa thì đi tu…Nói chung là tất cả đều đã thành đạt.
Quay sang nhìn bé Hằng, Dì Hiền hỏi nó:
- Còn con thì sao? Công việc thế nào? Và… đã có người yêu chưa?
- Dạ cám ơn Dì, con vẫn bình thường, công việc tạm ổn định. Người như con ai mà thèm yêu, thèm lấy làm vợ hả Dì.
Dì Hiền vỗ mạnh vào vai bé Hằng:
- Con bé Hằng năm xưa của Dì, nay nhìn phổng phao và rất xinh đẹp. Dì hỏi thật nhé: có anh nào để ý chưa? Nếu chưa thì Dì sẽ làm mai cho…
Bé Hằng cười to:
- Con đi tu.
- Con cứ giỡn hoài. Nhìn mặt con là Dì biết đã có đối tượng rồi, đúng không?
Bé Hằng có vẻ bẽn lẽn sau câu nói của Dì Hiền, nó lên tiếng;
- Thôi con cũng chịu thua bà Dì bói…hì.
Chợt bé Hằng nhận thấy trong ánh mắt của Dì Hiền đượm nét ưu tư. Nó chưa kịp hỏi thì đã nghe Dì ấy nói:
- Cách đây khoảng độ hơn tháng, có một người đàn ông trung niên, đi cùng với một bà bác sỹ. Hai người ấy đến đây dò hỏi và nói muốn tìm gặp con.
Bé Hằng sốt ruột:
- Thế họ tìm con có việc gì không? Thưa Dì.
Dì Hiền nhìn bé Hằng:
- Người đàn ông nói với Dì là ông ấy muốn tìm lại đứa con gái, mà trước kia mẹ nó đã gởi ở đây.
- Rồi sao nữa hở Dì?
- Cứ thong thả Dì kể cho con nghe…Sau đó Dì có mang một số hình ảnh của các em bé đã gởi ở đây ra cho ông ấy xem. Lục tìm một hồi, ông ấy cầm lấy tấm hình của con đưa cho Dì và nói: Dì ơi, con thấy đứa bé trong hình này giống với đứa bé đang làm cùng xưởng với con.
Bé Hằng nghe Dì Hiền nói nhưng nó chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao cả, mọi thứ cứ như đảo lộn trong đầu nó…Nó nhớ lại khi mẹ còn sống, mẹ vẫn thường nói đó là một người đàn ông lừa đảo và ác độc, thế thì ông ta còn tìm đến mình làm chi nữa? Và người đàn ông đang làm cùng xưởng với mình là ai? Hổng lẽ là…
Rồi nó nghe Dì Hiền nói tiếp:
- Vì trời cũng đã về chiều, nên họ đứng lên và cáo biệt Dì. Trước khi ra về, họ ngỏ ý muốn xin một tấm hình của con. Vì không có sẵn nên Dì đã hứa với họ, và họ nói rằng một ngày gần đây sẽ quay lại gặp Dì.
Sau khi đi một vòng thăm lại các Dì, nhìn xem lại khung trời nơi mà tuổi thơ mình đã sống. Bé Hằng xin phép các Dì và ra về. Trước lúc ra đi, vì muốn lưu giữ lại những hình ảnh khi còn bé để làm kỷ niệm, nên bé Hằng cũng hỏi xin Dì Hiền một tấm ảnh của nó.

Sự đời có nhiều cái khó ngờ và buồn cười…Chỉ cần chậm một ngày thôi, là hai cha con họ đã gặp nhau rồi. Và khi đó thì mọi chuyện không biết sẽ như thế nào…?
 Sự việc là như thế này: Nhân ngày nghỉ làm, An tranh thủ lên cô nhi viện để gặp Dì Hiền theo như lời Dì đã hứa trước đây. Vừa gặp thấy anh ta, Dì Hiền vội lên tiếng:
- Thật khó để mà nói trước mọi chuyện, giá mà ông lên đây vào ngày hôm qua, thì ông đã gặp được con gái của ông rồi.
An tròn mắt kinh ngạc:
- Ồ! Thật là tiếc. Số con quả là không may mắn rồi. Vậy con bé có nói gì nữa không, thưa Dì?
- Không, thưa ông. Mục đích của nó lên đây chỉ là để thăm chúng tôi mà thôi.  
Nói xong, Dì Hiền nhìn An:
- Nhưng liệu khi gặp lại, nó có muốn nhận ông làm bố nữa hay không? Vì tôi có nghe nó nhắc lại những lời mẹ nó đã nói: nhớ làm chi nữa, đó là một con người lừa đảo và ác độc.

Chiến tranh đã qua đi nhưng nó đã để lại không ít những phiền toái cho cuộc sống, tuy mọi người đã bớt lo sợ bị bom rơi đạn lạc. Nhưng những gì còn lại sau cuộc chiến bao giờ cũng là sự mất mát, nỗi đau thương. Nhiều gia đình sau đó kéo nhau trở về lại nơi chôn nhau cắt rốn, họ chỉ còn biết gục đầu xót xa, nhìn cảnh tượng hoang tàn đang diễn ra trước mắt…nhà cửa bị thiêu rụi, hoa màu thì xơ xác, nhưng nỗi đau lớn nhất họ phải gánh chịu, đó là người thân trong gia đình bị thất lạc, hoặc phải vĩnh viễn nằm im dưới lòng đất lạnh. Và nỗi khổ tiếp theo mà mọi người phải đối phó, đó là nạn đói. Người lớn có chịu đựng giỏi lắm cũng chỉ được một thời gian ngắn, riêng các em nhỏ thì cơ thể yếu ớt, khó có thể chống trả được khi cơn đói kéo dài, nào đâu phải ngày một, ngày hai…Cuối cùng thì xác người nằm la liệt khắp nơi, những người còn sống nhìn những người thân yêu của mình nằm đó, có thương, có nhớ, nhưng họ đâu còn hơi sức đâu nữa để mà khóc thương. Bên cạnh đó sự cai trị của những phần tử mới quá cay nghiệt, khiến nhiều người không chịu đựng được, đành phải tìm đường trốn chạy.
Ông bà chủ xưởng mộc thấy tình hình bất ổn và khó có thể nán lại được nữa, bèn kêu gọi mọi người trong xưởng dốc sức đóng lấy một chiếc ghe. Cuối cùng thì mọi việc đã hoàn tất và chiếc ghe cũng được hạ thủy.
Vì phải giữ bí mật cho đến phút cuối, nên những người trong xưởng không được bàn ra tán vào, và mọi người phải im lặng chờ đợi quyết định của ông bà chủ. Gặp riêng từng người làm cho mình, ông bà chủ thúc giục mọi người lo thu xếp chuyện gia đình và báo cho người thân biết để cùng ra đi.
- Sao hôm nay con về sớm vậy? Còn mấy ngày nữa mới tết mà.
Hoài lấy làm ngạc nhiên và hỏi thằng Hùng. Nó ra dấu cho mẹ im lặng và đẩy chiếc xe lăn của mẹ vào trong nhà.
- Mẹ nói khẽ thôi. Họ mà biết được thì đi tù cả đám.
Hoài giật mình tưởng thằng con mình đã làm điều gì ghê gớm:
- Con lại gây ra chuyện gì rồi phải không?
Tuy ở trong nhà và các cửa đã đóng kín, nhưng Hùng vẫn sợ ai đó nghe được câu chuyện mà nó sắp kể với mẹ. Nó bước lại gần Hoài, đồng thời đưa tay đẩy nhẹ xem các cửa đã được đóng chắc chắn chưa. Hoài thấy vậy bảo con:
- Có chuyện gì mau nói cho mẹ nghe xem.
Hùng ghé sát tai mẹ nói thật nhỏ:
- Ông bà chủ sắp vượt biên, ông bà ấy nói với con về nói cho mẹ biết, và mau mau thu xếp để ra đi cùng với họ.
Nghe con nói, Hoài cũng chưa biết tính sao vì việc này xảy đến quá bất ngờ.
- Ừ để mẹ tính xem sao đã.
- Mẹ tranh thủ nhanh lên nhé, để ông bà chủ còn tính toán số người trên ghe, chuyện này không thể chậm trễ được.
Tàn cuộc chiến, Hoài thấy có rất nhiều người đã tìm cách ra đi định cư ở một nước khác. Họ hy vọng ở những nơi đó, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn ít ra là với cái ăn cái mặc…còn những chuyện khác đối với họ cũng không mấy quan trọng. Nhưng cũng có người ra đi vì sợ bị thế này thế nọ, vì họ đã lỡ cầm súng trên tay để bảo vệ quê hương đất nước, mà những người chủ mới thì lại cho rằng đó là sai trái, là làm tôi cho kẻ thù…
Đối với mẹ con Hoài, trước giờ cũng chưa làm điều gì để phải đắn đo suy nghĩ hay sợ sệt cả…Nhưng qua sách vở báo chí và những gì khi còn đi học, Hoài nhận thấy nếu sống ở những nước văn minh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao…Và quan trọng là điều kiện sống ở các nước đó có thể giúp cho con cháu mình có cơ hội thăng tiến.
 Sau đó ít ngày thì Hoài nói với con mình:
- Hùng ạ, nếu đi được thì tương lai của các con được sáng sủa hơn, cuộc sống của các con được tốt hơn.
 Hùng nghe xong liền nhảy cẫng lên vui sướng:
- Vậy là mẹ đã chịu ra đi rồi. Con cám ơn mẹ. Để con báo lại với ông bà chủ.

Đêm ba mươi tết trời tối đen như mực, sở dĩ ông bà chủ chọn đêm giao thừa để ra đi, vì ông bà ấy nghĩ rằng vào thời khắc đó ai ai cũng đều chuẩn bị đón năm mới, nên mọi sự canh phòng có thể hơi lơ là, lỏng lẻo.
Những giọt sương đêm vương vấn trên mái tóc của mấy chục con người đang sắp sửa một hành trình dài vô định. Càng về khuya trời càng lạnh, nhưng sự hồi hộp lo lắng cũng phần nào làm cho mọi người quên đi cái cảm giác rét run đó. Họ run rẩy vì sợ bị bắt, bị tù tội, bị đánh đập…Họ trông chờ được nhanh chóng bước chân lên chiếc ghe, chiếc nhà tạm che chở họ trong những ngày tháng lênh đênh trên biển. Họ sốt ruột muốn được nghe tiếng máy ghe nổ vang giòn giã tiến ra khơi càng nhanh càng tốt. Dần dần rồi mọi người cũng được bước lên ghe, và tất cả phải hết sức giữ thinh lặng, không ai được nói với nhau lời nào. Và sau cùng thì tới lượt Hoài cũng đang chuẩn bị được đưa lên ghe.
Bất ngờ mọi người nghe có tiếng súng vang lên rất gần, kèm theo sau đó là những tiếng la hét ‘bắt lấy chúng nó…bắt lấy chúng nó’. Những ánh đèn pin lập lòe trong bóng tối lờ mờ; quét qua quét lại, cho thấy có rất đông người đang bao vây chiếc ghe. Ai nấy đều run rẩy, sợ hãi khi nghĩ tới việc bị bắt. Và khi những người cảnh sát biên phòng chưa kịp hành động thì có tiếng máy ghe nổ vang lên dòn dã, và chiếc ghe đã nhanh chóng rời khỏi bờ, thoát khỏi vòng vây của cảnh sát biên phòng trong tích tắc. Thấy mẹ mình chưa lên được trong khi chiếc ghe đã bỏ chạy, Hùng đòi nhảy xuống với mẹ, nhưng nó đã bị một số người đàn ông trên ghe ôm chặt lại. Không biết phải làm gì bây giờ, Cả hai chị em ngồi ôm nhau và gào khóc trong tuyệt vọng:
- Mẹ…mẹ ơi.
Từ trên bờ nghe tiếng la khóc của hai con, Hoài cũng chỉ biết khóc theo chúng nó. Nàng cố gắng giơ hai tay lên để vời con, nhưng trời tối đen như mực mấy ai nhìn thấy được. Lúc này ngoài tiếng ếch nhái và côn trùng kêu rả rích, chỉ còn lại là những tiếng khóc thổn thức của Hoài:
- Hai con của tôi đâu rồi?! Trời ơi…tôi làm sao sống được nếu không có các con tôi.
 Hùng vùng vẫy hồi lâu nhưng cũng không sao thoát ra khỏi những bàn tay rắn chắc kia. Cuối cùng thì bóng đen của những lùm cây ven bờ đã biến mất, thay vào đó xung quanh chiếc ghe bây giờ chỉ toàn là một biển nước mênh mông. Thấy ghe đã xa bờ, họ bèn buông nó ra. Biết là chẳng còn trông mong được gì nữa, Hùng và bé Ngọc Hương ngồi bệt trên sàn ghe ôm nhau khóc lóc vật vã. Ông bà chủ thấy vậy cũng động lòng, bước lại ngồi cạnh bên hai đứa, ông bà vỗ về an ủi:
- Thôi hai cháu bớt buồn, mai mốt có chuyến đi nào khác, ông bà sẽ liên hệ cho mẹ các cháu đi sau.
 Hùng vẫn chưa thôi khóc, nó vừa nức nở vừa nói:
- Sao các người ác vậy! Sao không chờ mẹ tôi lên ghe rồi hẵng đi?
- Không kịp nữa rồi cháu ơi, chỉ chậm một giây thôi là chết cả đám, tù mọt gông.
Phần An, anh ta cũng theo gia đình ông bà chủ ra đi trên chuyến ghe này, nhưng có lẽ anh ta không thể nhận ra được Hoài vì trời quá tối, hơn nữa khi đã lên trên ghe rồi, anh ta vội đi vào trong buồng máy để phụ giúp cho ông chủ, nên những gì xảy ra bên ngoài hầu như anh ta không hay biết gì cả, và anh ta chỉ biết được chuyện này sau khi chiếc ghe đã ra ngoài khơi xa, và được nghe mọi người kể lại.

Nói về Hoài thì khi thấy chiếc ghe mà trên đó có hai đứa con của mình bỏ chạy, Hoài với theo và la khóc. Nàng không chịu ngồi yên, và nàng càng ra sức giãy giụa, thì chiếc xe lăn càng trôi theo bờ đất ruộng trơn trợt chạy xuống mép nước. Cuối cùng thì cả Hoài và chiếc xe đều ngã lăn đùng xuống nước. Nàng hoảng sợ quẫy đạp thật mạnh, nhưng càng lúc nàng có cảm tưởng như mình đang bị chìm dần vào trong biển nước mênh mông, mắt nàng cay xè và cổ họng thì mặn chát…văng vẳng bên tai có tiếng của ai đó nói to:
- Nhanh lên, hình như có người bị chìm kìa.
Hoài đã được cứu và đưa lên khỏi mặt nước. Sực nhớ tới hai con, nàng lại khóc to:
- Hai con của tôi…người ta đã bắt chúng nó đi rồi…trời ơi!
Sau đó, Hoài gục đầu trên chiếc xe lăn, mặc cho những người cảnh sát biên phòng muốn dẫn đi đâu thì dẫn.
Trời dần sáng, lúc này Hoài mới nhận ra nơi mình đang ngồi là đồn cảnh sát biên phòng khu vực biển.
- Này chị kia. Ai đã tổ chức và rủ rê chị vượt biên?
Thoáng chút sợ hãi, Hoài ngước mắt nhìn vị cảnh sát vừa hỏi mình. Sau đó nàng rụt rè trả lời:
- Con tôi làm việc cho người ta, và họ dẫn chúng nó đi.
- Thế chị không biết việc này là phạm pháp sao?
- Tôi có biết, nhưng các con tôi nói với tôi là mẹ con mình đều bị tàn tật, đi nơi khác kiếm sống dễ hơn. Như các chú thấy đấy, thân tôi như vầy thì còn làm được gì nữa.
Sau đó nhìn thấy cảnh ngộ đáng thương của Hoài, những người cảnh sát biên phòng cũng thông cảm và tha cho nàng. Trước khi Hoài ra về, họ còn dặn dò:
- Nếu chị mà không bị tàn tật, thì pháp luật sẽ không dung tha cho chị đâu. Và xét theo hoàn cảnh của chị, chúng tôi khoan hồng và cho chị về, nhưng nhớ là đừng có nghe ai rủ rê nữa nhé.
Những người lính biên phòng đã lấy xe của đơn vị, và chở Hoài cùng với chiếc xe lăn về đến tận nhà. Chị Hai bán nước vẫn chưa hiểu đã có chuyện gì xảy ra, bỗng dưng thấy Hoài ngồi trên xe cảnh sát. Lấy làm lạ chị Hai mon men tới gần, nhưng khi chị chưa kịp hỏi gì thì đã nghe thấy Hoài khóc lóc kể lể:
- Chị Hai ơi, mấy đứa con của em…đi rồi.
Chị Hai bán nước nghe Hoài nói liền hỏi lại:
- Nhưng mà chúng nó đi đâu? Cứ từ từ nói chị nghe xem.
 Hoài đã bớt khóc, nàng vừa lau nước mắt vừa nói:
- Chúng nó đi vượt biên cả rồi.
Chị Hai trợn mắt lên:
- Thế sao em không đi cùng chúng nó?
- Em chưa kịp lên ghe thì đã bị cảnh sát phát giác và bắt giữ. Những người trên ghe thấy vậy hoảng sợ và nổ máy ghe chạy trốn. Sau đó em bị té xuống sông, và nếu những người cảnh sát không cứu kịp, thì có lẽ giờ này em cũng đã chết rồi.
Chị Hai bán nước vỗ vai Hoài và nói:
- Ơn Chúa đã cứu em. Thôi giờ đây chỉ cầu xin và mong sao cho các cháu ra đi được bằng an, vì…
Nói tới đây chị Hai không dám nói tiếp nữa, vì chị đã nghe rất nhiều chuyện hãi hùng về cảnh của người vượt biển rồi…Nào là bị lừa mất hết gia sản rồi vào ngồi tù, nào là bị cướp biển tấn công, hãm hiếp, nào là đói quá - đói đến nỗi phải ăn thịt nhau để có cơ hội sống còn…
Hoài ngước nhìn chị Hai, và cố ý nghe xem chị ấy nói gì… Nhưng chị ấy đã lãng qua chuyện khác:
- Thôi hay là dọn về ở với chị cho vui, tạm thời nhà cửa em cho mấy người tạm cư thuê, hàng tháng cũng có chút tiền chi tiêu, được không?
 - Cám ơn chị. Việc này để em tính sau.

Sau một đêm thao thức và nghĩ tới hai con của mình, tới những người cùng ra đi với chúng, phải nói Hoài thật sự lo sợ. Nàng lo sợ cũng đúng thôi: vì giữa đại dương ngút ngàn, chiếc ghe thì nhỏ bé tựa như một chiếc lá trôi bồng bềnh theo từng cơn sóng. Gặp trời yên biển lặng thì không sao, nếu chẳng may gặp phải phong ba bão táp thì chả có cách nào mà chống chọi nổi, rồi bị lạnh, bị đói khát…Hoài lo sợ và không dám nghĩ tiếp.
Ngoài kia ánh dương đã ửng hồng rực rỡ, tuy mệt mỏi và buồn ngủ nhưng Hoài cũng cố ngồi dậy. Nàng với tay lên mở vòi nước ở la-bô, những giọt nước mát lạnh như giúp Hoài tỉnh táo hơn. Trong lúc cùng quẫn, không biết phải bày tỏ nỗi lòng và trút bỏ sự lo lắng cho ai. Hoài quyết định đi lên Núi Cúi, nơi Đức Mẹ Mân Côi vẫn ngày ngày đứng đó trong thinh lặng. Mẹ đang chờ đợi những đứa con yêu dấu của Mẹ đến đây để tạ ơn, để sùng kính và để cầu xin…Riêng Hoài thì cũng đã lâu, vì mãi bận loay hoay với cơm áo gạo tiền, do đó nàng không thể ghé lên thăm Mẹ được.
 Đường lên đỉnh núi vì chưa được hoàn chỉnh, nên đối với những người như Hoài là rất khó để lên được đến nơi. Trườn mình xuống khỏi chiếc xe lăn, Hoài bắt đầu bò đi. Những viên đá có cạnh sắc nằm rãi rác khắp mặt đường, cứa vào da thịt nàng đau buốt. Thỉnh thoảng một vài chiếc xe hơi oằn mình tiến lên, để lại sau lưng những đám bụi mịt mờ, nhuộm đỏ đầu tóc và quần áo của Hoài. Một vài người thấy vậy thương tình, bèn dừng xe lại và ngỏ ý muốn giúp Hoài, nhưng nghĩ tới các con, tới những người thân quen đang phải đương đầu với sóng gió ngoài khơi xa… Hoài cám ơn họ và nàng muốn dâng những hy sinh nhỏ bé này để đền tội mình, và cầu xin Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Sao Biển cứu vớt và che chở mọi sự. Cuối cùng thì Hoài cũng đã lên tới đỉnh núi, nàng sung sướng reo lên: Ồ! Mẹ kia rồi…Ơi Mẹ của con. Những giọt nước mắt chất chứa bao nỗi niềm trong lòng đua nhau tuôn chảy trên má nàng.
Nắng đã lên cao, Hoài chào từ biệt Mẹ ra về, sau khi đã trút hết tâm tư cùng Mẹ. Trên đường xuống núi, nàng chưa bao giờ thấy mình có được sự bình an như hôm nay.

Nói về chiếc ghe của ông bà chủ xưởng mộc thì sau khi ra khơi được hơn một tuần, nó bỗng nhiên dở chứng, lúc chạy lúc không. Mọi người đều cảm thấy lo sợ nếu chẳng may máy ghe mà bị hỏng, thì cơ hội để đến được bến bờ bên kia là rất khó. Cuối cùng thì những nỗi lo lắng, sợ hãi ấy, cũng thành hiện thực. Chiếc ghe lúc này tựa như chiếc lá, trôi bập bềnh và nhấp nhô theo từng cơn sóng. Người có đạo thì cầu xin sự bình an đến từ Thiên Chúa của mình, kẻ sùng Phật thì niệm vái cầu mong điều may mắn. Ai nấy đều lắc đầu, lo sợ, nhưng họ vẫn không hết hy vọng là sẽ có một điều kỳ diệu, một phép lạ xảy ra, và mọi người sẽ được cứu thoát.

Đã hơn một tháng trôi lênh đênh trên biển, số lương thực và nước uống dự trữ cũng đã cạn kiệt. Đưa mắt nhìn chung quanh, chỉ thấy toàn biển nước mênh mông. Nhiều người bắt đầu than vãn, trách móc, cãi cọ và đổ lỗi cho nhau.
Và cuối cùng thì thảm cảnh đã thực sự xảy ra, sự may mắn mà mọi người chờ đợi đã không mỉm cười với họ, khi trên ghe bây giờ mọi người đã nằm la liệt ra vì đói, vì khát. Một số người đã bàn tính tới việc ăn thịt nhau để sinh tồn. Ban đầu thì người này vấp phải sự chống đối của người kia…thà chết đói chứ ai nỡ lòng nào đi ăn thịt đồng loại…Nhưng nói là nói vậy thôi, chứ khi bị đói người ta chỉ nghĩ tới bao tử, tới cái ăn, và phải tìm đủ mọi cách để làm thỏa mãn nó, ngoài ra những chuyện khác chỉ còn là thứ yếu. Cuối cùng thì những cơn đói đã làm sôi sục cả ruột gan và vật vã họ. Do chịu đựng không nỗi, nên buộc lòng họ phải ra tay hạ sát đồng loại mình để ăn thịt, và đã có hai người trong số các thuyền nhân, phải vĩnh viễn ra đi sau khi trở thành lương thực cứu đói, cho mấy chục con người đang chờ chết trên ghe. Có được chút của ăn, mắt họ sáng ra và tinh thần sảng khoái hơn. Họ lại bắt đầu kể cho nhau nghe vài ba câu chuyện tiếu lâm, hòng quên đi những chuyện đau buồn khác. Nhưng rồi món thịt người cứu đói cũng chỉ giúp cơ thể họ cầm cự được vài hôm. Nhiều người vì quá yếu hoặc bệnh tật, không đủ sức để chống chọi được với những khó khăn dồn dập trên biển, đã nhắm mắt xuôi tay và trở thành chút lương thực dự trữ cho số người còn lại.
 - Hùng ơi! Chị đói quá. Em tìm xem trên ghe hay ai đó có gì ăn, xin cho chị một chút đi, chị chịu hết nổi rồi.
- Chị chờ em vài phút nghen.
Nói xong, Hùng lần mò lên trên đám người đang tụ tập ăn uống ở đầu mũi ghe. Trông thấy mặt tên hôm qua đã giật miếng thịt của mình. Để trả thù nó, Hùng bèn từ từ tiến lại gần và lợi dụng lúc nó không để ý, Hùng giật phăng miếng thịt nó đang cầm trên tay, sau đó chạy thật nhanh về phía chị mình đang nằm và đưa cho chị. Tên kia tức tối vì bị mất ăn bèn đuổi theo, nhưng Hùng đã nhảy vào buồng máy, và cầm sẵn trên tay cái cờ-lê chuẩn bị đối phó với nó. Tên kia thấy vậy rất hậm hực, nhưng biết là không thể làm gì được, đành lủi thủi quay lại chỗ cũ, không quên dư dứ nắm đấm về phía đối thủ của mình.
Phần Ngọc Hương, sau khi được em mình đưa cho miếng thịt, cô ấy ăn ngấu nghiến và chỉ vài phút sau chỉ còn trơ lại khúc xương.
- Thịt gì mà ngon quá vậy hở em?
 Hùng không dám nói là thịt người, vì trước đó chị Ngọc Hương của nó đã nói là thà chết chứ không ăn. Sợ nói ra, chị ấy biết sẽ nôn ói hết, và như thế thì làm sao mà còn đủ sức khỏe để tiếp tục hành trình trên biển. Nó cười trả lời chị:
- À, lúc nãy người ta mới bắt được một con hải cẩu.
Ngọc Hương ngờ vực:
- Hải cẩu nó ở gần bờ chứ đâu có ở xa tít ngoài khơi vậy?
 Hùng chỉ cười mà không trả lời chị, vừa kịp lúc nó trông thấy bóng dáng một chiếc tàu lớn hụ còi chạy xa xa ngoài kia, nó vội vàng cởi cái áo trắng đang mặc và đứng lên vẫy, với hy vọng chiếc tàu kia sẽ nhìn thấy và cứu vớt. Đứng vẫy một lúc thấy không có gì khả quan, nó bỏ tay xuống và vất mạnh cái áo trên sàn ghe.
- Thôi tiêu rồi, đành phải chờ tàu khác vậy.
An thì trông bên ngoài có vẻ khỏe hơn những người khác, nên một số người trên ghe hơi khiếp sợ chàng, anh ta đã ra lệnh thịt người nào là cả bọn phải nghe theo. Bỗng dưng sáng nay An cảm thấy mệt mỏi và đau nhức hết toàn thân, tuy không ngủ được nhưng An vẫn nhắm mắt nằm yên lặng. Đột nhiên nghe thấy tiếng thằng Hùng hét to:
- Bỏ ra, bỏ ra. Các người không được ăn thịt người này.
An mở mắt nhìn xem chuyện gì đã xảy ra, Hùng thấy vậy bèn la lên:
- Bác ơi, làm ơn cứu…cứu…
Lúc đầu An tưởng rằng bọn người kia đang bắt bé Ngọc Hương, chị của thằng Hùng để làm thịt. An cố gắng ngồi lên và trông thấy bé Ngọc Hương đang ngồi ở gần buồng lái. Vậy thì người mà chúng bắt và chuẩn bị làm thịt kia là ai? An không thể hình dung được vì bọn chúng đã bịt kín mặt người kia lại rồi. Nhìn thoáng qua, An đoán đó là một cô gái, nhưng anh ta không biết rõ cô gái này là ai, và tại sao thằng Hùng lại hét toáng lên như thế? Đang suy nghĩ, bất chợt An nhìn thấy một tấm hình từ trong túi áo của cô gái kia rơi trên sàn ghe. Nhìn kỹ tấm hình, An nhận ra đó là hình của Lý. An thầm nghĩ: không lẽ đây là con bé Hằng? Và tuy đang rất mệt nhưng An cũng cố gắng đứng lên và lao nhanh về phía bọn họ. Bị đánh bất ngờ, bọn người kia không kịp trở tay và ngã lăn kềnh ra sàn ghe. An nhanh chóng lột cái khăn bịt trên mặt cô bé và giật mình kinh hãi, chỉ chậm một vài giây nữa thôi, là đứa con gái của mình đã bị bọn kia làm thịt, và mình lại vô tình ăn phải thịt đứa con gái yêu dấu của mình.
Mọi chuyện đã ổn thỏa, Hùng bước lại ngồi gần bên và đưa tay ôm bé Hằng vào lòng. Lúc này bé Hằng đang khóc và mặt mày vẫn còn xanh mét vì sợ hãi. Nó an ủi bé Hằng:
- Thôi em đừng sợ nữa, đã có bác và anh đây rồi, bọn họ không dám làm gì em nữa đâu.
Cơn sốt và đau nhức chẳng những không thuyên giảm mà lại ngày càng nặng thêm, khiến cho An nhiều lúc mê man li bì. Thật không thể biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra, khi mọi người trên ghe đang bị cơn đói hoành hành. Trong cơn mê, nhiều lúc An thấy mình như đang bị bọn người kia bắt trói và chuẩn bị làm thịt, lắm lúc chàng hoảng sợ hét to lên và ngồi bật dậy. Dụi mắt nhìn kỹ biết mình vẫn còn sống, và mọi người đang trố mắt nhìn mình.
Nào đâu phải riêng An, từ chiều ngày hôm qua đến giờ, Hùng cũng thấy mệt mỏi và người thì nóng bừng lên. Chỉ khi nào quá mệt Hùng mới thiếp đi, nhưng nó vẫn không quên dặn dò chị Ngọc Hương và bé Hằng ngồi cạnh bên trông chừng, nếu thấy bọn người kia có hành động gì khả nghi thì gọi ngay.
Hùng vừa mới chợp mắt được khoảng dăm phút thì bé Hằng lay mạnh:
- Anh Hùng ơi, mau dậy đi. Bọn họ đã bắt bác An và đang chuẩn bị làm thịt kìa.
Toàn thân mệt mỏi rã rời và đầu thì nhức như búa bổ, nhưng khi nghe vậy, Hùng nhanh chóng ngồi dậy và hét to:
- Ê bọn kia…mau thả bác ấy ra.
Nghe tiếng hét, bọn người kia ngừng tay lại nhìn Hùng, Ngọc Hương và bé Hằng. Sau đó chúng từ từ tiến lại nơi ba đứa đang đứng, và trên tay thì lăm le đầy những gậy gộc. Thằng Hùng vơ vội cái tay quay của máy ghe lên, nhằm vào bả vai của một tên trong bọn họ và phang mạnh. Bất thình lình một cơn sóng bạc đầu ụp mạnh xuống chiếc ghe, nước tung lên trắng xóa, làm chiếc ghe lắc lư chao đảo dữ dội. Thật là may mắn cho tên nọ, nếu không có con sóng dữ thì đã bị thằng Hùng phang trúng rồi. Phần Hùng do mất thăng bằng nên cũng bị ngã lăn kềnh ra sàn ghe và bị bọn người kia túm lại đánh đập. Lúc này bọn họ đã dồn hết sự chú ý vào Hùng và quay sang tấn công nó, do đó An dễ dàng thoát khỏi vòng vây của bọn họ. An chạy lại giật lấy cây gỗ mà bé Hằng đang cầm trên tay, đoạn quật túi bụi vào đám người kia. Tình thế trên ghe bây giờ náo loạn như một trận thanh toán nhau, tiếng la hét, rên rỉ vang lên khắp nơi.
Nhưng rồi do bị ốm nên một mình An không đủ sức chống lại bọn người kia. Sau cùng họ đã bắt được An và trói lại, một tên trong bọn đưa mắt nhìn Hùng và nói:
- Thằng nhải ranh này hay cản phá, phải ăn thịt nó trước.
Ngay lập tức bọn chúng hò nhau bắt giữ Hùng trói gô lại, đoạn cởi áo của nó ra và lấy con dao chuẩn bị hạ sát. Đối diện với cái chết thì đã là con người ai mà không khiếp sợ, nhưng bỗng nhiên An thấy lòng mình như bị một thứ tình cảm gì đó đánh động, thúc giục… Và nó thiêng liêng đến nỗi An không thể nào hiểu được. Mặc dù lúc này hai tay đang bị trói chặt, nhưng An vẫn cố gắng ngước mắt lên nhìn bọn người kia và nói to:
- Nó còn bé, các người hãy để cho nó sống. Nếu đói, các người cứ ăn thịt của tôi.
Nói xong An gục đầu quì mọp xuống sàn ghe, phó mặc mình cho bọn họ muốn làm gì thì làm. Bọn người kia nghe An nói vậy, đều đứng sững lại giây lát, sau đó chúng nắm lấy tay của An và lôi kéo về đầu mũi ghe, đoạn đè anh ta xuống chuẩn bị làm thịt. Một tên trong bọn giơ cao con dao lên, và khi nó chưa kịp hạ xuống hòng kết liễu đời An, thì có tiếng hét lớn:
- Mau dừng tay, có tàu đến cứu chúng ta kìa.
 Bọn người kia nghe Hùng nói liền buông An ra, tất cả cùng vội vàng đứng lên và nhìn theo hướng tay Hùng vừa chỉ. Một tên trong bọn họ vỗ tay thật to:
- Đúng rồi, có chiếc tàu to lớn đang tiến lại gần chúng ta. Chúng ta được cứu rồi.
 Và đúng như mong đợi của mọi người, một chiếc tàu hải quân Mỹ đã cập sát vào chiếc ghe của họ. Ai nấy đều nhảy lên reo hò vui sướng, vì biết chắc vẫn còn cơ hội sống sót. Những người lính Mỹ đứng trên chiếc tàu trông thấy An bị trói, nên đã bước qua và cởi trói cho anh ta.
Do ngày còn đi học, đã có thời gian An theo học Anh ngữ, nên qua trao đổi với những người lính hải quân Mỹ. Họ lắc đầu kinh hãi khi được nghe An kể lại những sự việc vừa qua. Sau đó họ tức tốc nhảy lên ghe quan sát, và tìm kiếm những khúc xương người, mà sau khi đã ăn hết phần thịt, mọi người vất bỏ lăn lóc trên sàn ghe. Họ lắc đầu rùng mình và thay vì phá bỏ chiếc ghe, họ buộc chiếc ghe vào tàu của họ và kéo đi, theo như lời giải thích của An với mọi người, thì họ muốn cho cả thế giới biết là họ đã có bằng chứng, về việc người ta đã ăn thịt nhau trên biển trong lúc vượt biên.
- Bác An ơi. Chúng cháu không ngờ bác lại giỏi thế. Cũng may mà có bác, bằng không thì, mọi người chẳng biết phải giải thích với những người lính hải quân Mỹ như thế nào cho họ hiểu.
Mọi người đã được chuyển sang hết bên chiếc tàu của Mỹ, và vui cười, ăn uống những thứ mà hải quân Mỹ vừa chia sẻ. Nhìn ai nấy đua nhau ngấu nghiến, vì đã bị đói khát quá lâu. Những người lính Mỹ mỉm cười hài lòng, và họ ra dấu khuyên mọi người nên ăn từ từ kẻo không có lợi cho sức khỏe, tuy biết vậy nhưng không ai nhịn được. Và sau khi được ăn uống no nê rồi, lúc này thì mọi người mới nhớ đến nhau, họ cùng nắm tay, ôm hôn và xin lỗi nhau về những chuyện vừa xảy ra trên ghe. Và hai ngày hôm sau thì chiếc tàu đã cập cảng, những người vượt biên trên tàu đã được đưa về các trại tỵ nạn và được các cơ quan từ thiện đến giúp đỡ.
Hùng cùng với chị mình là Ngọc Hương và bé Hằng kéo nhau tới và cám ơn An đã giúp đỡ và che chở, cũng như bảo vệ mấy chị em không bị bọn người kia xơi tái. Bỗng bé Hằng nhìn An và hỏi:
- Từ ngày con biết bác ở xưởng mộc cho đến nay, con chả thấy bác nhắc nhở gì tới con cái của bác, và cả bác gái nữa.
An hơi bất ngờ với câu hỏi của bé Hằng:
- À, bác bị thất lạc gia đình lâu rồi. Nếu bác không lầm thì…có lẽ giờ này các con của bác cũng bằng tuổi của các cháu đây.
An cũng giả vờ hỏi thăm, bé Hằng nhanh nhảu trả lời:
- Mẹ con nói là hồi đó khi con còn trong bụng mẹ, có lần mẹ đi khám bác sỹ, họ cho biết là con bị dị tật sứt môi hở hàm ếch. Bố con nghe thế bèn bỏ mẹ con mà đi, mẹ bảo là bố tàn nhẫn quá. Thế bác thấy con có đẹp không?
Đưa mắt nhìn bé Hằng, đứa con mà năm xưa mình bỏ rơi và hất hủi nó. An thở dài:
- Ừ con đẹp lắm, nhìn con đâu có ai bảo là con bị sứt môi.
An vừa dứt lời thì đã nghe thấy bé Hằng nhỏng nhẻo:
- Ủa bác nói con đẹp, cớ sao bác phải thở dài. Hay là bác cũng có đứa con bị sứt môi hở hàm ếch giống con.
An không ngờ con bé Hằng này nó lại hỏi nhiều câu cắc cớ. Trông thấy đang phát lương thực ngoài kia, An giục nó:
- Thôi để lúc khác nói chuyện, mau ra lãnh cơm không thì hết đấy.
- Vâng ạ.

Thánh lễ sáng Chúa Nhật, bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói về việc: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 12-13) Trong bài giảng, Cha xứ đã triển khai câu chuyện yêu thương mà Thầy Giêsu, đã từng dạy dỗ cho các đồ đệ của Ngài. Và Cha xứ có kể lại cho mọi người nghe một câu chuyện rất thương tâm và hãi hùng, mà các cơ quan truyền thông cũng như báo chí vừa loan tải, đó là chuyện người ta ăn thịt lẫn nhau. Mọi người trong Nhà Thờ xôn xao và tự hỏi…với thế kỷ 20 văn minh như thế này, chắc đó chỉ là câu chuyện giả tưởng và thường được hư cấu cho thêm phần lâm ly bi đát. Riêng Cha xứ, có lẽ Ngài đoán biết được giáo dân đang nghĩ gì, nên một lần nữa, Ngài khẳng định với mọi người là chuyện này hoàn toàn chính xác và vừa mới xảy ra. Ngài cho biết là một xưởng mộc trong giáo xứ nọ đã đóng ghe vượt biển, và sau đó do máy ghe bị hư và phải mất hơn một tháng trời lênh đênh trên biển. Vì quá đói nên họ phải ăn thịt lẫn nhau để duy trì sự sống. Nghe Cha xứ giảng tới đây, Hoài thấy khiếp sợ và gục đầu xuống chiếc xe lăn bất tỉnh. Chị Hai bán nước cũng hoảng hồn khi nghe biết tin này, chị vừa đẩy chiếc xe lăn của Hoài ra khỏi Thánh Đường vừa run lẩy bẩy.
 Về đến nhà để Hoài nằm nghỉ trên giường, chị Hai chạy ngay ra sạp báo và mua lấy một tờ tin nhanh. Ở ngay trang đầu của báo, một hàng tít lớn đã đăng lại tin giống như vị Cha xứ vừa mới nhắc tới, chị lẩm bẩm: Sao lại xảy ra chuyện này! Tội nghiệp mấy đứa nhỏ, không biết có đứa nào còn sống không?!
Rồi vào một tối nọ, hai chị em đang ngồi ăn cơm. Tiếng phát thanh viên vang lên trên chiếc ti vi để giữa nhà, loan tin về vụ việc ăn thịt người trên chiếc ghe vượt biển, và họ đang phỏng vấn một nhân chứng còn sống trên chiếc ghe ấy. Nghe thấy thế Hoài buông cả bát đũa và lăn nhanh chiếc xe lại gần để nhìn và nghe cho rõ. Chị Hai cũng vừa mới bước tới bên cạnh đã nghe thấy Hoài hét lên:
- An…Trời ơi…An kìa. An còn sống. Không rõ chàng có biết mà cứu lấy mấy đứa con của mình không?
Chị Hai nghe vậy bèn giật mình và hỏi lại Hoài:
- Em…em vừa nói tới An nào?
Hoài không trả lời chị Hai và tiếp tục dán mắt vào cái ti vi. Qua bài phỏng vấn, Hoài đã biết rõ là hai đứa con của mình và cả bé Hằng đã được An cứu sống và bảo vệ chở che.
Biết cũng không thể nào giấu được chị Hai, và Hoài thì quá đỗi vui mừng nên kéo chị Hai lại sát bên:
- An là chồng của em và là bố của thằng Hùng và bé Ngọc Hương. Chẳng qua An cứu hai đứa bé thoát khỏi bọn ăn thịt người kia, vì là chỗ quen biết làm cùng một xưởng, còn ngoài ra thì họ chưa nhận ra là có quan hệ ruột thịt, cha con với nhau.
Chị Hai cũng vui mừng không kém:
- Chuyện đó cứ để từ từ, việc quan trọng là mấy đứa con của em còn sống là vui rồi. Chị chúc mừng em nhé.
Rồi những ngày sau đó, khách hành hương đến kính viếng Mẹ Núi Cúi, đều chứng kiến và cảm động khi nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ tàn tật, ngày ngày bò lên đỉnh Núi Cúi để Tạ Ơn Chúa và Cám ơn Mẹ, đã thương cứu giúp gia đình thoát qua khỏi cơn nguy khốn. Dịp này Hoài cũng bày tỏ với Mẹ nỗi lòng về An. Cầu xin Mẹ phù hộ chàng sớm biết ăn năn, từ bỏ những gì là xấu xa, gian ác…để quay về với Lòng Thương Xót Chúa và ẩn núp dưới bóng Mẹ Nhân Lành.

Thời gian trôi nhanh, chỉ mới ngày nào đây thôi mà nay Hoài đã xa các con của mình được năm năm rồi. Bao nhiêu nước mắt nàng khóc vì thương nhớ hai con mỗi khi đêm về, làm đẫm ướt cả chiếc gối. Hiểu thấu được nỗi lòng của những người mẹ xa cách con mà không biết ngày nào mới được đoàn tụ. Biết Hoài rất buồn nhưng chị Hai cũng không thể làm gì hơn ngoài những lời vỗ về an ủi Hoài:
- Em có tin là trái đất tròn không? Chị hy vọng một ngày nào đây, khi mà sự bang giao giữa các nước được thiết lập. Lúc ấy việc qua lại từ nước này sang nước khác dễ dàng hơn, các cháu sẽ lại được về thăm em, và mẹ con sẽ lại được sống bên nhau…lo gì.
- Cám ơn chị, nhưng xa cách con cái lâu ngày, nỗi nhớ thương chúng nó luôn canh cánh trong lòng và không ngừng day dứt em, khiến đôi lúc em thấy mình như không đủ can đảm để chịu đựng thêm được nữa.
Nghe Hoài nói, chị Hai rất cảm động. Tuy nhiên:
- Em cứ lo nghĩ nhiều chi cho nó mệt, rồi sinh ra đau bệnh. Ở các nước văn minh, mọi nhu cầu của cuộc sống được đảm bảo đầy đủ, các cháu sẽ được xã hội lo cho ăn học tới nơi tới chốn mà.
Nói về Ngọc Hương, Hùng và bé Hằng thì sau khi đã được chính quyền Mỹ hỗ trợ và cung cấp cho nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Họ còn tạo dựng cho công ăn việc làm, nhưng Hùng vẫn cảm thấy chưa hài lòng, vì điều mà nó vẫn ước ao trước đến giờ; ngay cả khi còn ở Việt Nam đó là được đi học. Chuyện học hành thì ngay từ khi còn bé, lúc đang ở với mẹ, bao giờ mẹ cũng muốn cho nó được ăn học như người ta. Thế rồi sau khi đã suy nghĩ đắn đo, kỹ lưỡng, Hùng đăng ký để được theo học. Vẫn biết rằng ở vào lứa tuổi như nó bây giờ, việc tiếp thu kiến thức đôi khi gặp phải rất nhiều trở ngại, nhưng để đạt được mục đích thì bằng mọi giá phải cố gắng thôi. Hơn nữa cho dù con người ta có ở bất cứ nơi đâu, phải sống trong môi trường nào, người có học, có sự nghiệp trong tay bao giờ cũng hơn. Và nó mong muốn là sau này khi gặp lại mẹ, chắc mẹ sẽ vui sướng và hãnh diện khi thấy con mình cầm tấm bằng tốt nghiệp trên tay.
Ngày nọ Hùng nói với chị Ngọc Hương và bé Hằng:
- Ở bên đây đi học không mất tiền, tội gì mà không đi! Phải không hai người đẹp?
Thấy thằng Hùng nói cũng có lý, vậy là sau khi bàn tính cẩn thận. Ngoài giờ đi phụ việc cho người ta, ngày ngày ba đứa rủ nhau cắp sách tới trường. Đúng như người ta vẫn nói: ‘Vạn sự khởi đầu nan’…Thời gian đầu do ngôn ngữ bất đồng, nên việc giao tế với dân bản địa cũng gặp không ít khó khăn. Thằng Hùng mới sực nhớ đến bác An, nó nói với chị Ngọc Hương và bé Hằng:
- Bác An rất giỏi tiếng Anh, hay là mấy chị em mình nhờ bác ấy dạy kèm nhé.
Hai người kia thấy vậy cùng ồ lên
- Ừ nhỉ…Có vậy mà cũng không nhớ!
An nghe biết việc này thì rất vui, vì tuy trước đây An đã đôi lần thấy Hùng đi với Hoài, nhưng chàng cũng chưa dám khẳng định Ngọc Hương và Hùng có phải là con của mình hay không, nhưng dù sao cũng là chỗ quen biết với nhau, vả lại chúng nó còn là bạn với bé Hằng, đứa con của An và Lý mà hiện tại An vẫn chưa dám nói ra sự thật cho bé Hằng biết.
Cuối cùng thì những tháng ngày học tập miệt mài đã kết thúc. Cầm trên tay mảnh bằng tốt nghiệp, Ngọc Hương, Hùng và bé Hằng cảm thấy quá đỗi sung sướng, vì không ngờ cũng có được ngày hôm nay. Hùng thầm nghĩ giá mà có mẹ ở đây hẳn mẹ sẽ hạnh phúc lắm, và nó chợt buông tiếng thở dài…Không biết ngày nào mới có dịp về lại quê hương thăm mẹ đây? Không biết giờ này mẹ sống ra sao? Ở đây mình quá sung sướng, đồ ăn thức uống thừa mứa, trong khi nơi quê nhà tội nghiệp cho mẹ, đến bữa ăn chỉ đĩa rau muống luộc chấm với nước tương, và vài ba con cá khô đã dậy mùi thum thủm. Chỉ nghĩ tới đó thôi, Hùng thấy mắt mình bỗng cay sè.
Tiết trời cuối năm quá lạnh, tuyết trắng đã phủ đầy các nóc nhà ở xứ cờ hoa. Mọi người đi mua sắm nhộn nhịp để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh và năm mới sắp tới. Nép mình bên Hùng, bé Hằng cảm thấy bớt run vì lạnh. Nhìn người ta tay trong tay sánh vai trên hè phố, bé Hằng thì thầm với Hùng:
- Anh thấy người ta hạnh phúc không?
Hùng cười to:
- Thì mình cũng đang đi bên nhau, cũng đang hạnh phúc đây.
- Thôi em không đùa đâu nhé. Còn chuyện của chúng mình, anh định bao lâu nữa?
Hùng vỗ nhẹ lên vai Hằng:
- Từ từ thêm chút thời gian nữa. Em không thấy anh đang tìm cách để liên lạc với mẹ sao. Đám cưới của chúng mình phải có mẹ chứng kiến chứ.

Tưởng rằng sẽ không còn cơ hội cho những người tha phương cầu thực. Nhưng cuối cùng điều kỳ diệu cũng đã xảy ra sau bao nhiêu tháng đợi năm chờ. Những người đã trốn chạy và rời bỏ đất nước được phép trở về thăm cố hương. Tin vui này làm nức lòng hàng triệu người trong đó có Ngọc Hương, Hùng và bé Hằng. Ở bên này qua theo dõi báo chí, Hoài và chị Hai bán nước cũng biết được tin này, hai chị em ôm nhau mừng rỡ:
- Thấy chưa, chị đã nói với em rồi, trái đất tròn mà.
Chuẩn bị đồ đạc cần dùng và một số quà tặng cho người thân xong xuôi, mấy chị em bước lên chuyến bay sắp sửa cất cánh về Việt Nam. Riêng An thì do bận và chưa thu xếp được công việc, nên đợt này không thể về cùng với đám trẻ. Vì nghe đâu An cũng đang chuẩn bị ra mắt bộ phim, một bộ phim mà trong đó kể lại những tháng ngày lênh đênh trên biển với biết bao diễn biến hãi hùng qua việc phải ăn thịt người để sống sót.
Sau hơn một ngày mệt mỏi, cuối cùng thì máy bay cũng đã hạ cánh xuống phi trường. Vì muốn dành bất ngờ cho mẹ, nên mấy chị em không báo trước cho Hoài. Đang ngồi bán vé số trước nhà, Hoài bỗng thấy một chiếc taxi màu vàng đỗ xịch trước cửa. Tưởng có khách hàng sang trọng ghé mua số, Hoài ngẩng mặt lên chờ đợi. Và nàng giật mình khi thấy một người thanh niên cao to vừa bước xuống khỏi xe, chân anh ta hơi khập khiễng. Nàng nghĩ nhanh: ai trông giống thằng Hùng con mình? Và chỉ đến khi người thanh niên ấy quay mặt lại, Hoài sung sướng hét to:
- Hùng…Có phải Hùng đó không? Ôi thằng Hùng con của mẹ
Trông thấy mẹ, Hùng khóc òa và ôm chặt mẹ mà không nói được một lời nào. Ngọc Hương cũng sà vào và ôm mẹ. Nhìn cảnh mấy mẹ con ôm nhau khóc, bé Hằng cũng khóc theo vì quá xúc động. Chị Hai bán nước hay tin cũng vội ghé qua nhà thăm hỏi và chúc mừng ngày đoàn viên của mẹ con Hoài.
Những ngày các con về chơi, Hoài như được sống lại lần nữa. Nàng vui vì các con đã được trưởng thành trên một đất nước văn minh, được học hành thành đạt. Một hôm Hoài hỏi Ngọc Hương:
- Thế còn con, con tính khi nào mới tìm cho mình một người bạn trăm năm?
Ngọc Hương mỉm cười nhìn mẹ:
- Mẹ à. Con nói ra mẹ đừng cười con nhé.
- Thì con cứ nói cho mẹ xem thử nào.
Ngọc Hương nói chậm rãi cho Hoài nghe:
- Con đã tìm hiểu kỹ rồi, và con muốn đi tu mẹ ạ.
Hoài sung sướng nhìn con:
- Nếu thế thì còn gì tốt đẹp hơn nữa. Đi tu con sẽ giúp được nhiều người hơn. Nhưng…
Sợ mẹ đổi ý, Ngọc Hương liền hỏi:
- Mẹ nói nhưng nghĩa là sao con chẳng hiểu.
Hoài giải thích cho con:
- Nghĩa là ở một đất nước với đầy đủ tiện nghi vật chất, của ăn của uống dư thừa…Mẹ sợ những thứ đó cám dỗ và mê hoặc, làm cho người ta rất khó giữ được mình.
Hoài nói tiếp:
- Thôi thu xếp đi, ngày mai mẹ và con sẽ đi lên Núi Cúi cầu xin Thánh Ý Chúa, và xin Mẹ Vô Nhiễm che chở phù hộ cho con trên đường dâng hiến, được không?
- Dạ được. Con cám ơn Mẹ.
Sáng hôm sau, Ngọc Hương thuê hẳn một chiếc xe ô tô và cùng mẹ đi lên Núi Cúi. Bầu trời hôm nay trong xanh, nắng đẹp. Lần đầu tiên được ngồi xe hơi, Hoài đưa mắt ngắm nhìn quang cảnh chung quanh Núi Mẹ. Nàng tấm tắc khen:
- Ôi chao đẹp quá! Giờ mẹ mới được thực mục sở thị, khen ai khéo vẽ nên cảnh sơn thủy hữu tình.
Ngọc Hương hỏi mẹ:
- Thế bây giờ mẹ mới được lên trên này hả? Con cứ ngỡ là mẹ đã biết lâu rồi chứ.
Hoài trầm ngâm:
- Không, mẹ cũng đã lên đây rồi. Nhưng hôm nay mới được nhìn ngắm mọi vật.
Ngọc Hương vẫn chưa hiểu ý mẹ:
- Mẹ nói vậy nghĩa là sao? Và những lần trước mẹ lên đây bằng gì?
Thấy Ngọc Hương cứ dò hỏi, buộc lòng Hoài phải nói với con:
- Mẹ đi lên đây một mình, để cầu nguyện cho các con sau khi các con ra đi. Và mẹ đã bò lên tới đỉnh núi, tới tượng Đức Mẹ bằng hai bàn tay và với một đầu gối còn lại.
Ngọc Hương nghe mẹ nói, bèn cúi xuống vén ống quần của mẹ lên tới đầu gối, nàng trông thấy những vết trầy xướt cũ, mới, chi chít trên chân của mẹ. Cảm động quá Ngọc Hương liền ôm chầm lấy mẹ, đôi mắt nàng chớp chớp.
- Thật tội nghiệp cho mẹ tôi. Lần sau mẹ muốn đi, con sẽ để tiền lại và mẹ nhớ là phải thuê xe đi nhé.
Hoài cảm động:
- Ấy là mẹ muốn dâng những hy sinh này, để cầu xin Chúa Mẹ dủ lòng thương xót các con.
- Con cám ơn mẹ.
Nói xong Ngọc Hương đưa mắt nhìn hồ nước Trị An bên cạnh. thấp thoáng bóng vài chiếc ghe nhỏ của cư dân quanh vùng, tranh thủ những ngày rãnh rỗi buông lưới xuống đáy hồ, chài kéo vài ba con tôm cá để cải thiện bữa ăn, hoặc bán cho bà con hàng xóm, kiếm thêm chút mắm muối. Trông thấy cả một trời nước mênh mông, xanh thẳm… Ngọc Hương cảm thấy rùng mình và ôm chặt lấy mẹ. Bỗng dưng thấy con mình như vậy, Hoài lo lắng hỏi con:
- Có cái gì làm con sợ hãi vậy?
Ngọc Hương nhìn về khoảng không trước mặt và nói:
- Mẹ có biết không? Con nghĩ là nếu không có mẹ cầu xin, và nếu Chúa Mẹ không thương đến, thì mấy chị em con đã bị bọn người trên ghe bắt ăn thịt rồi.
- Chuyện này sau đó ít lâu mẹ có nghe biết rồi.
Sau đó Ngọc Hương kể lại cho Hoài nghe về những cơn say sóng làm nôn thốc nôn tháo, những ngày trôi lênh đênh trên biển bị nắng, bị đói khát. Và về việc chỉ cần chậm một vài giây thôi, là em Hùng đã bị thiệt mạng rồi. Hoài giật mình:
- Vậy ai đã cứu thằng Hùng?
- Mẹ còn nhớ bác An, người cùng làm chung xưởng mộc với thằng Hùng và bé Hằng không?
Hoài hỏi lại:
- À…à…mẹ cũng không nhớ rõ lắm.
Hoài nói thế vì không muốn cho Ngọc Hương biết An là bố của chúng nó. Ngọc Hương kể tiếp:
- Bọn người kia bắt thằng Hùng và đang chuẩn bị ăn thịt, bác An thấy vậy bèn quì gối trước mặt bọn chúng và xin tha cho nó. Bác ấy nói với bọn chúng rằng:
- Nó còn bé, các người hãy để cho nó sống. Nếu muốn, các người có thể ăn thịt của tôi.
Nghe con nói Hoài lấy làm sửng sốt, nàng như không dám tin vào những chuyện như thế. Xưa kia vì thấy nó tàn tật, chàng muốn giết nó. Nay lại rộng lòng cứu giúp nó. Trong khi An chưa biết rõ những đứa bé này là con của mình, thế mà chàng cũng đối xử với chúng quá tốt, chẳng khác nào như một người cha dám hy sinh mạng sống để cứu con mình khỏi chết. An đã thực sự ăn năn hối lỗi rồi chăng?
Chiếc xe chở hai mẹ con đã lên tới đỉnh núi. Ngọc Hương đỡ lấy và dìu mẹ bước lại gần bên tượng Mẹ, hai mẹ con cùng quì gối xuống. Hoài thì thầm nguyện xin:
‘ Lạy Mẹ Maria, con xin cảm tạ Mẹ, vì muôn ơn lành Mẹ đã đổ xuống trên gia đình con. Con muốn được cùng với Mẹ, ca ngợi tình thương Chúa tới muôn đời. Amen.’
Riêng với An, Hoài cũng cầu xin với Mẹ:
‘ Dù gì chàng cũng là chồng của con, chỉ vì một chút yếu đuối và một giây phút lầm lỡ, đã sa lạc vào vòng tội lỗi. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ, ban cho chàng ơn tha thứ và bình an.’
Nắng đã lên cao, hai mẹ con chào giã từ Mẹ Núi Cúi để trở về. Vừa bước chân đến cửa, Hoài đã thấy chị Hai đứng chờ, chị cười đùa trêu Hoài
- Hai ‘chị em’ nhà ấy đi đâu về đó?
Hoài vừa cười vừa trả lời:
- Dạ, hai ‘chị em’ tôi lên Núi Cúi về ạ.
Mọi người cười vang sau câu nói vui của Hoài. Sau đó chị Hai nói tiếp:
- Lâu ngày các cháu mới về thăm nhà, chị muốn mời em và các cháu qua nhà chị dùng cơm canh mồng tơi với cà.
Ngọc Hương nghe thế thì nhảy lên:
- Úi chà lâu rồi, tí nữa thì con quên mất món ngon đặc sản của bác Hai.
- Cái con bé này, chỉ khéo đùa.

Cuốn phim‘ Cuộc vượt biển kinh hoàng’ mà An là đạo diễn đã ra mắt công chúng. Bộ phim đã làm cho người xem hao tốn không ít nước mắt. Cầm trên tay những tấm vé mời xem phim, mà trong đó ba đứa trẻ cũng là những nhân vật chính. Khi xem đến đoạn bác An vừa bị bọn người kia bắt trói, vừa giơ tay xin họ ăn thịt mình để cứu thằng Hùng, cả ba chị em đều đã không ai cầm được nước mắt, bé Hằng lên tiếng:
- Chị Hương ơi, anh Hùng ơi…Sao em thấy thương và tội nghiệp cho bác An thế! Bọn họ sắp ăn thịt bác rồi kìa.
Hùng cũng gạt nước mắt:
- Ừ nhỉ…tại sao lúc ấy ba chị em mình chỉ đứng nhìn mà không cố gắng cứu bác ấy nhỉ? Cũng may mà có chiếc tàu kia, bằng không thì…
Tuy chuyện xảy ra đã lâu, nhưng khi xem lại, cả ba chị em cứ ngỡ là đang xảy ra nên lo sợ và nhốn nháo lên. Những vị khách ngồi gần bên lúc đầu có hơi bực mình, vì cả ba đứa cứ ngồi vừa xem vừa nói chuyện rộn rã và còn khóc thút thít, khiến cho họ không thể theo dõi được. Nhưng sau đó thì có nhiều người, khi biết rằng ba chị em là những nhân vật chính và là nhân chứng thật sự trong bộ phim, họ hết sức khen ngợi và quây tròn chung quanh xin chụp hình lưu niệm.

Lớp giáo lý hôn nhân đã bắt đầu khai giảng, trong số các đôi bạn trẻ theo học đợt này, người ta thấy có thêm một đôi bạn bị khuyết tật, đó là Hùng và bé Hằng. Ban ngày làm việc vất vả, nhưng tối đến không bao giờ người ta thấy bé Hằng và Hùng đến trễ. Hai đứa rất siêng năng, chăm chỉ và ít khi vắng mặt.
Từ sau lần về thăm mẹ, mua sắm cho mẹ những máy móc và điện thoại, để mẹ con liên lạc dễ dàng và thuận tiện hơn. Việc này đã khiến Hoài bớt nhớ nhung chúng nhiều hơn. Do đó mặc dù phải ở xa các con, nhưng ngày nào cũng được gặp chúng qua các phương tiện hiện đại,. Và chúng khuyên Hoài ráng chờ đợi thêm một thời gian nữa, cho đến khi nào cuộc sống ở bên nước ngoài thật ổn định, sẽ làm giấy bảo lãnh để mẹ con được đoàn tụ với nhau.
 Phần Ngọc Hương thì sau khi tìm hiểu và cầu nguyện, đã xin vào tu học ở một dòng nọ. Thỉnh thoảng được nghỉ học, Ngọc Hương lại về thăm các em. Trông thấy Hùng và bé Hằng tỏ vẻ thương nhau thật lòng, và có ý định tiến đến hôn nhân, Ngọc Hương cũng khuyên nhủ các em:
- Việc gì cũng phải từ từ nhé, người ta thường nói’ vụt tốc bất đạt’ đấy.
Nghe chị mình nói vậy, Hùng liền phân bua:
- Chị quên rồi à, tụi em quen nhau đã lâu lắm rồi chứ còn sớm sủa gì nữa.
Quay qua nhìn bé Hằng, thằng Hùng vừa cười vừa nói với Ngọc Hương:
- Chỉ có cô bé này điên mới lấy thằng què như em.
Ngọc Hương thấy em mình nói vậy cũng buồn cười. Nhưng rồi lại nghiêm ngay nét mặt:
- Chị nói từ từ nghĩa là chị khuyên hai em, nếu đã thương nhau thì trước sau gì mình cũng là vợ chồng, đừng làm gì ngược lại với giáo huấn của Hội Thánh. Riêng chị, khi nói ra điều này, chị thành thật xin lỗi các em trước nghe.
Thằng Hùng sốt ruột:
- Điều gì mà quan trọng thế?
- Từ từ chị nói cho nghe, đó là chị thấy trong câu chuyện của hai em, linh tính như mách bảo với chị, có cái gì gì đó chưa ổn?
Thằng Hùng nghe Ngọc Hương nói thì vùng vằng:
- Tụi em thương nhau, muốn được chung sống với nhau thì có gì mà không ổn?
Nhìn đồng hồ thấy cũng đã đến giờ phải quay về lại nhà dòng, Ngọc Hương tranh thủ nói với hai em:
- Chuyện này hai em phải hỏi lại mẹ cho chắc ăn nhé. Chuyện hôn nhân là chuyện quan trọng của cả một đời người, nó đâu phải như chiếc áo, một khi đã cũ, đã chán chê là thay thế đâu. Chị thấy thời buổi bây giờ, giới trẻ yêu nhau theo kiểu yêu cuồng sống vội, chỉ muốn trao đổi thân xác cho nhau để thỏa mãn dục vọng, để rồi sau khi đã no xôi chán chè; không còn cần đến nhau nữa, thì cũng nhanh chóng rời bỏ nhau. Về chuyện của hai em, chị không phản đối, nhưng một khi tiến hành hôn lễ, việc đầu tiên là vị Linh Mục chứng hôn cho hai em, phải nắm rõ được gốc tích của hai em trước đã.
Bé Hằng nghe Ngọc Hương nói vậy bèn lên tiếng:
- Nghĩa là em phải về cô nhi viện xin các Dì ở đó xác nhận đúng không?
Ngọc Hương gật đầu và chào các em rồi ra về. Và những lời Ngọc Hương vừa nói và dặn dò, đã để lại cho Hùng và bé Hằng nhiều suy nghĩ.

Từ ngày Ngọc Hương và Hùng định cư ở nước ngoài đến nay, thỉnh thoảng hai chị em cũng gom góp và gởi tiền về cho mẹ sinh sống. Hoài bây giờ tuy đỡ vất vả hơn trước nhiều, nhưng cứ ăn không ngồi rồi và không làm gì cả thì cũng thấy buồn chán. Do đó ngày ngày Hoài lại ra ngồi làm bạn bên chiếc tủ nhỏ, làm vui với việc bán vài tấm vé số, dăm ba điếu thuốc lá cho khách đi đường, thu nhập cũng tạm đủ với một thân một mình như Hoài. Vì thế tiền bạc các con gởi về cho, Hoài chưa phải tiêu xài tới và còn tích lũy được một số kha khá.
 Nhìn lại quãng đời đã qua, Hoài thấy mọi chuyện xảy ra trong gia đình mình đều có bàn tay Chúa quan phòng, giờ chỉ còn duy nhất mỗi chuyện giữa nàng và An là điều làm nàng trăn trở nhất mà thôi. Để tỏ lòng đền đáp lại những ơn huệ Chúa Mẹ đã ban cho, Hoài quyết định trích ra một số tiền giúp đỡ cho các Dì ở trại cô nhi.
- Chị Hai ơi, hôm nay kiêng việc. Em với chị đi thăm các Dì và các em bé mồ côi nhé.
Chị Hai bán nước mừng rỡ:
- Ồ em không nhắc thì chị quên mất, cũng đã lâu chị chưa có dịp đi lên đó, mặc dù rất muốn.
 Hoài cười hớn hở:
- May quá, lúc đầu nói ra chỉ sợ bị mắng…
Chị Hai sửng cồ:
- Việc này là việc tốt mà, chị phải cám ơn em nữa là khác.
Tiếng chuông điện reo vang, chỉ sau vài giây chờ đợi, cánh cổng trại cô nhi đã được mở toang. Chị Hai đẩy chiếc xe lăn và cùng với Hoài tiến vào bên trong phòng khách. Gặp lại hai người, các Dì rất vui vẻ và cám ơn. Sau đó các Dì hướng dẫn hai người đi tham quan trại và gặp gỡ các em. Khi đi ngang qua phòng lưu niệm và trưng bày lại những hình ảnh, những sinh hoạt của trại. Bất ngờ, Hoài nhận thấy có một tấm hình của đứa bé gái, có nét mặt rất giống với bé Hằng. Hoài ngồi lặng yên ngắm nghía bức ảnh hồi lâu. Thấy có điều gì đó khác thường, chị Hai vội hỏi:
- Bức ảnh này cũng như nhiều bức ảnh khác, có gì đâu mà em phải quan tâm đến nỗi ngồi thừ người ra vậy?
Hoài nói nhỏ với chị Hai:
- Em thấy đứa bé trong hình rất giống với bé Hằng.
Chị Hai hỏi lại:
- Bé Hằng quen với thằng Hùng phải không?
Hoài chưa kịp trả lời cho chị Hai, thì dì Hiền như đã hiểu đươc câu chuyện giữa hai người. Dì ấy vội lấy trong tủ ra một quyển album nhỏ và đưa cho hai chị em rồi nói:
- Cháu bé này tên là Hằng. Và có cả hình của mẹ cháu đây, bà ấy tên là Lý.
Hoài nghe tới đây thì sửng sốt và thốt lên:
- Chết rồi.
Thấy Hoài có phản ứng kỳ lạ, chị Hai liền hỏi lại:
- Em nói gì mà chết rồi…có chuyện gì sao?
Hoài im lặng hồi lâu, nàng không ngờ sự đời lại tréo ngoe như vậy. Bé Hằng là con của Lý và An…như vậy nó với thằng Hùng nhà mình là…anh em cùng cha khác mẹ, có quan hệ ruột thịt với nhau. Hoài không trả lời chị Hai, và chị Hai thấy Hoài lẩm bẩm:
- Không thể như thế được.
Dì Hiền đứng đấy nhưng cũng không hiểu chuyện gì đã xảy ra, dì ấy quay sang hỏi chị Hai:
- Có chuyện gì quan trọng lắm sao?
Lúc này Hoài mới lấy lại bình tĩnh. Đưa mắt nhìn Dì Hiền và chị Hai, Hoài nói:
- Thằng Hùng và bé Hằng yêu nhau và chúng nó đang dự định kết hôn với nhau.
Dì Hiền vẫn chưa hiểu:
- Chuyện đó là bình thường mà, có gì khiến chị hốt hoảng vậy.
- Nhưng thưa Dì, hai đứa chúng nó là anh em ruột với nhau.
Và bây giờ thì đến lượt Dì Hiền, Dì ấy cũng ngạc nhiên không kém:
- Sao lại có chuyện như vậy được!
 Sau đó Hoài kể lại cho Dì Hiền và chị Hai nghe chuyện của nàng và An, rồi chuyện giữa An và Lý. Hai người ngồi nghe Hoài kể mà cứ ngỡ câu chuyện này nó như là truyện giả tưởng, khó làm cho người đọc tin được. Ấy thế mà nó lại xảy ra sờ sờ trước mắt. Nghe xong, Dì Hiền bước đến gần vỗ vai Hoài và nói:
- Thôi chuyện này từ từ giải quyết, đừng quá nóng vội, mà bọn trẻ chúng nó không hiểu lại cho là người lớn cấm cản, rồi nảy sinh nhiều chuyện không hay. Và điều quan trọng nhất bây giờ là chúng ta phải tìm cách ngăn lại, đừng để sự việc nó ngày càng diễn tiến phức tạp…và đến lúc đó thì người có lỗi lớn nhất là chúng ta.
Chị Hai bán nước cũng sốt ruột:
- Em nhanh chóng gọi điện báo cho hai đứa nhỏ biết, càng sớm càng tốt. Nếu để lâu chỉ sợ chúng nó…
Chị Hai không nói tiếp, nhưng mọi người ai nấy cũng đều hiểu đằng sau câu nói ấy là gì…

Lớp giáo lý hôn nhân cũng sắp kết thúc, và các đôi dự hôn đang được người hướng dẫn tập dượt các nghi thức, để chuẩn bị cho thánh lễ hôn phối sắp tới. Bé Hằng cảm thấy sung sướng và hạnh phúc, cô ấy hỏi Hùng:
- Anh dự tính khi nào mới gởi giấy và thiệp mời cho mẹ?
- Yên trí đi, tôi đã lo đâu đó xong xuôi rồi, thưa bà phu nhân.
 Vừa về đến nhà, Hùng nghe điện thoại rung lên, mở máy ra biết là mẹ đang gọi cho mình. Nó lấy làm lạ và không hiểu sao hôm nay có chuyện gì mà mẹ lại gọi cho nó.
- Con chào mẹ. Mẹ gọi con có việc gì không?
Sợ con mình nghe biết được câu chuyện này thì quá sốc, rồi buồn chán bỏ bê hết mọi chuyện và ốm đau bệnh tật. Hoài hỏi xin con số điện thoại của An.
- Con cho mẹ xin số của bác An.
- Mẹ xin làm chi vậy?
- Để mẹ cám ơn bác ấy vì đã cứu giúp hai con trên hành trình vượt biển ấy mà.
Nghe mẹ nói, Hùng tưởng thật. Sau khi đã cho mẹ số điện thoại của An xong, nó chào mẹ và đi đến công ty.
An đang ngồi một mình trong phòng làm việc, cơn buồn ngủ chợt đến. Bước tới chiếc tủ lạnh đặt nơi góc phòng, An lấy ly cà phê đã pha sẵn lúc sáng mà chàng chưa kịp uống. Tiếng chuông điện thoại vang lên bất ngờ làm An giật mình, vì bình thường vào giờ nghỉ trưa này ít người gọi tới văn phòng của chàng. Nhấc máy lên, An lấy làm lạ với số điện thoại được gọi tới từ Việt Nam. Và An nghe thấy từ bên kia một giọng nói run run của người phụ nữ:
- Xin chào anh. Cho tôi xin lỗi về sự đường đột này nhé. Và xin thông cảm cho tôi vì đã không hẹn trước với anh.
An không hiểu người phụ nữ bên kia muốn nói gì.
- Xin hỏi chị là ai? Và chị cần gặp tôi có việc gì không?
- An…anh An…
Chỉ nghe tới đó thì An nghe thấy tiếng tai nghe điện thoại rơi lộp cộp xuống bàn. Chàng không hiểu vì sao người phụ nữ lạ này lại biết tên của mình, và chỉ gọi tên mình xong là im lặng. Tuy thế chàng vẫn nói to vào điện thoại, mong rằng ở bên kia người phụ nữ nghe thấy và cầm máy.
Phần Hoài khi nghe tiếng An, nàng không thể tránh khỏi xúc động, mặc dù trước đó hai người đã mặt này mặt nọ với nhau. Hai tay run run, Hoài cúi xuống và nhặt chiếc tai nghe vừa đánh rơi. Tiếng An vẫn như gào lên trong điện thoại:
- Alô…alô…
Không thể để An chờ lâu hơn được nữa, và sự việc của bọn trẻ như thôi thúc Hoài. Nàng cầm chiếc tai nghe và đặt nó sát vào miệng mình, sau đó hít một hơi thật dài rồi nói:
- Tôi là mẹ của thằng Hùng.
Hoài vừa dứt lời thì đã nghe thấy tiếng An:
- Sao…Chị nói sao? Chị là mẹ của thằng Hùng.
Ngừng giây lát, An nói tiếp:
-  Xin lỗi chị. Cho phép tôi được hỏi thăm… tên chị là gì?
Hoài cắn chặt môi lại, nàng không biết mình phải nói gì với chàng bây giờ. Bên kia An nói như thúc giục:
- Chị sao vậy? Chị mau nói cho tôi biết, đã đến giờ làm việc rồi.
Hoài im lặng suy nghĩ, và khi nàng chưa kịp trả lời thì đã nghe thấy ở đầu dây bên kia, An đặt mạnh ống nghe xuống bàn.
An bực mình hay An bận công việc? Có thể vì mình bắt chàng chờ đợi quá lâu cho một câu trả lời…? Bao nhiêu câu hỏi ùa về trong đầu, Hoài hối tiếc vì đã để lỡ một dịp may hiếm có, mọi chuyện xảy ra là do lỗi ở nàng. Nhưng bây giờ thì muộn rồi, An đã cúp máy và không biết khi nào chàng gọi lại. Ngoài ra Hoài không biết mình phải nói với thằng Hùng thế nào đây cho nó hiểu. Và Hoài sợ rằng một khi thằng Hùng biết được chuyện này, nó sẽ rất buồn và không giữ được bình tĩnh… lỡ may… Chỉ nghĩ tới đó thôi, đủ để Hoài cảm thấy lo lắng và tội nghiệp cho con mình quá.
Hôm nay Hoài dậy từ rất sớm, nàng muốn lên trên Núi Cúi để thưa chuyện với Đức Mẹ, vì giờ đây nàng không biết phải giải quyết những chuyện vừa xảy ra như thế nào…Đứng dưới chân tượng Mẹ mà hai hàng nước mắt chảy đầm đìa. Hoài thì thầm với Mẹ:
Mẹ ơi. Xin Mẹ thương đến con của con. Cuộc đời nó đã quá khổ rồi, Mẹ biết đấy, nó bị cha từ bỏ khi còn trong bụng mẹ. Sanh ra đã bị tàn tật rồi, và sau đó lớn lên cũng không được học hành, ngày ngày lại phải theo mẹ đi xin ăn. Bị người ta bắt cóc đem bán, rồi trên chuyến vượt biển chỉ một chút xíu nữa thôi, thì phải bỏ mạng vì người ta muốn ăn thịt nó. Và mãi đến hôm nay, một chút hạnh phúc nhỏ bé đơn sơ mà nó đã bao nhiêu năm ấp ủ, lại một lần nữa nghịch cảnh trái ngang đã cướp đi niềm vui và ước mơ của nó.
Mẹ ơi xin Mẹ chỉ dạy cho con biết, con phải làm cách nào? con phải nói thế nào đây? cho con của con nó bớt đau khổ. Con xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa, ban ơn phù giúp cho con của con đủ sức để vượt qua gánh nặng tinh thần này. Con Cám ơn Chúa và Mẹ.

Hoài đang ngồi ở tủ bán vé số, thì nghe có tiếng người gọi sau lưng:
- Chị ơi bán cho em năm tờ vé số.
Hoài mừng rỡ vội mở tủ lấy mấy cặp số ra cho khách chọn lựa, bụng mừng thầm vì mới mở hàng đã có khách sộp. Nhưng khi vừa quay lưng lại, Hoài bỗng nghe thấy tiếng chị Hai cười to:
- Ô hô bị bỡn rồi.
- Cái chị này, hôm nay ế số là em đem về đốt nhà chị đấy.
- Nhà chị có gì đâu mà lửa củi nó thèm.
Rồi chị Hai hỏi Hoài về chuyện hôm nọ:
- Thế em đã báo cho lũ nhỏ biết tình hình chưa? Cứ để muộn màng lỡ nó ôm cái bụng chà bá về đây thì…ông trời cũng lắc đầu và tòa án cũng chạy làng đấy.
Nghe chị Hai nói, Hoài bỗng thấy lo lắng. Nàng trả lời ởm ờ với chị ấy:
- Em chưa có thời gian, định bụng mấy bữa nữa.
Chị Hai giọng chắc nịch:
- Tui nói rồi không nghe thì ráng mà ôm sô. Mai mốt lỡ ra thì biết tính sao khi ông An vừa là ông nội vừa là ông ngoại. Hì.
Tuy chị Hai vừa cười vừa nói, nhưng Hoài thấy mình như chết điếng trong lòng. Thực ra đối với tình cảnh của Hoài bây giờ rất khó xử…Đợi An, thì chẳng biết đến bao giờ chàng mới gọi lại? Gọi cho thằng Hùng thì nàng không muốn một tí nào cả. Thật là khó xử quá.
Phần An, sau khi nghe Hoài gọi điện thoại cho mình, và mặc dù chưa gặp mặt, nhưng An đoán người phụ nữ ấy là Hoài qua câu nói: Tôi là mẹ của thằng Hùng. Việc này cũng làm cho An tò mò và muốn biết rõ sự thật như thế nào Chàng nhớ lại quãng thời gian trước đây, từ ngày gặp thằng Hùng ở xưởng mộc, An vẫn nghi ngờ nó là đứa con của mình và Hoài, vì trước đây khi ở trại giam, có lần An đã gặp nó cùng đi với Hoài. Và cũng đôi lần An muốn hỏi thăm về cha mẹ của nó, nhưng rồi lại thôi.
Thật đúng là người tính không bằng trời tính… Cuối cùng thì những lo lắng của Hoài và những thắc mắc của An cũng dần được sáng tỏ. Tan sở, về tới nhà. An vội vàng tắm rửa, nhìn đồng hồ thấy cũng chưa đến giờ cơm tối. Nhấc điện thoại lên, An bấm vào dãy số mà trước đây vài tuần một người phụ nữ nào đó đã gọi cho mình. Sau vài giây chờ đợi, cuối cùng thì…
- Alô tôi nghe đây.
Trong giao tiếp hàng ngày, An không thể nhớ hết là đã có bao nhiêu cuộc gọi cho mình, và đối với chàng những cuộc gọi đó cũng chỉ là bình thường. Ấy thế mà sao hôm nay, với cuộc điện thoại này, chàng lại có cảm giác hồi hộp. Cố gắng lấy lại bình tĩnh, An trả lời:
- Tôi là An, tôi đang ở Mỹ. Xin lỗi chị. Có phải hôm nọ chị đã gọi cho tôi, đúng không?
Hoài trả lời:
- Đúng, tôi đã gọi cho anh.
- Vậy thì tôi muốn biết, chị gọi cho tôi có việc gì không?
Hoài nhắc lại cho An nghe một lần nữa:
- Tôi là mẹ của thằng Hùng và bé Ngọc Hương. Tôi gọi điện cho anh là để cám ơn anh vì đã giúp đỡ các cháu trong lúc vượt biển.
An nghe Hoài nói vậy, chàng chưa biết phải trả lời sao đây thì nghe Hoài nói tiếp:
- Tôi nghe các con tôi kể lại. Anh như là người đã sinh ra chúng nó lần thứ hai trong cuộc đời, khi sẵn lòng hy sinh thân mình, chịu để cho bọn người kia ăn thịt thay cho con tôi. Cũng may…
Nói tới đây bỗng nhiên An thấy Hoài im lặng, chàng liền nói:
- Ồ chuyện đâu có gì làm chị phải suy nghĩ nhiều. Vì nếu ông trời không đoái thương chỉ đường cho chiếc tàu kia đến cứu giúp, thì không riêng bản thân tôi, mà ngay cả thằng Hùng trước sau gì cũng bị bọn người kia ăn thịt à.
- Một lần nữa tôi xin thay mặt các con tôi, cám ơn anh rất nhiều. Và nếu anh có dịp về lại quê hương, xin cho tôi được một lần báo đáp công ơn này.
Nghe Hoài nói xong, An lên tiếng hỏi:
- Xin lỗi chị, chị có thể cho tôi biết quí danh để tiện bề xưng hô được không?
Vì tuy đã lâu không gặp lại An, nhưng qua tấm hình mà bé Hằng đã chụp lén ở xưởng mộc khi trước, Hoài biết rõ là mình đang nói chuyện với người chồng cũ. Và vì chưa có dịp may thuận tiện để hai người có thể ngồi lại với nhau sau bao nhiêu trắc trở, do đó Hoài quyết định giấu và chưa nói tên của mình ra cho An. Nàng giả vờ la lên:
- Ối…!
Ở bên kia, An nghe thấy thế hoảng hồn, tưởng là Hoài bị chuyện gì, vội hét lên trong máy:
- Chị, chị bị sao vậy?
Biết là An đang lo lắng, nhưng Hoài im lặng và mỉm cười đặt máy xuống.
Ở đời, có những chuyện người ta muốn thực sự giấu kín, nhưng rồi ‘cây kim trong bọc sớm muộn gì cũng phải có ngày lòi ra’. Ở bên nước Mỹ, An đã biết rõ bé Hằng là đứa con của mình với Lý qua những tấm ảnh mà nó cất giữ trong bóp, nhưng vì chưa có dịp thuận tiện để nói ra điều này, nên An hy vọng một ngày gần đây sẽ làm sáng tỏ mọi việc, cho dù bé Hằng nó không muốn nhận mình là bố nữa, thì cũng phải cho nó biết dù sự thật này có làm cho nó đau lòng.

Doanh thu từ bộ phim đã vượt quá con số cơ bản ban đầu mà những người cộng tác với An đã chiết tính, và chính An cũng không ngờ tới điều này. Để tưởng thưởng cho bọn trẻ đã cùng tham gia cộng tác với mình, An tổ chức một chuyến du lịch vòng quanh thế giới, và chàng hy vọng qua chuyến đi này, sẽ thu thập thêm được nhiều dữ liệu và kinh nghiệm cho những bộ phim sắp tới, và chặng cuối cùng sẽ ghé thăm đó là Việt Nam. Chàng cũng muốn nhân dịp này sẽ trích ra một số tiền lợi tức từ bộ phim để giúp đỡ các trẻ em ở trại cô nhi do Dì Hiền phụ trách.
Vì không muốn cho mẹ mình phải sốt ruột, đợi chờ và vất vả trong việc đưa đón. Bọn trẻ đã bàn tính là sẽ không báo tin cho mẹ biết về chuyến đi này, chúng muốn dành cho mẹ một sự bất ngờ. Chuyến bay đã đáp xuống phi trường, và sau khi hoàn thành các thủ tục. Bọn trẻ rủ rê An về ở cùng nhà cho vui, An lấy lý do bận một số công việc nên không thể. Sau đó chàng thuê xe taxi về nhà bố mẹ mình là ông bà Tiến.
Như đã hứa với An trong lần điện thoại trước. Vài ngày sau đó, Hoài gọi điện thoại mời An ghé thăm nhà và dùng cơm. Đáp lời mời của Hoài, An thu xếp công việc và chuẩn bị cho lần gặp gỡ này. Có tiếng còi xe vang lên trước cổng, và sau đó người ta thấy một chiếc taxi đỗ xịch lại. Hoài hồi hộp chờ đợi sự xuất hiện của An, trông thấy mẹ mình cứ ngồi chần chừ mãi trong nhà, Hùng và Ngọc Hương liên tục giục mẹ ra đón khách, nhưng Hoài vẫn yên lặng và không nói gì, khiến cho lũ trẻ hơi khó chịu vì những cử chỉ của mẹ lúc này… Cuối cùng thì An cũng bước chân vào nhà, hai người sửng sốt nhìn nhau và không nói với nhau một lời nào, khiến cho bọn trẻ chẳng hiểu vì sao.
Ngọc Hương liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi đây là bác An. Người đã cứu em Hùng khỏi bị người ta ăn thịt đấy.
Hoài nói nhỏ:
- Cám ơn anh.
Vì chưa muốn cho bọn trẻ biết hai người vừa là vợ chồng; vừa là cha mẹ của chúng, nên Hoài giục các con chạy ra ngoài tìm mua thêm vài món thức ăn, đồ uống. Trông thấy vợ mình ngồi trên chiếc xe lăn với một chân còn lại, An bước lại gần bên và nắm lấy tay Hoài. Giọng chàng nghẹn ngào:
- Trời ơi! Em bị sao thế này?
Hoài ngồi yên lặng, mặc cho hai hàng nước mắt đua nhau tuôn tràn.
- Tất cả là do lỗi của anh, mong em tha thứ cho anh.
Hoài gạt nước mắt nhìn An:
- Bây giờ anh biết lỗi thì tất cả đã quá muộn rồi.
An quì gối xuống:
- Em hãy cho anh thêm một cơ hội, để anh chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra cho em và các con được không? Anh nguyện sẽ yêu thương lo lắng cho mẹ con em suốt quãng đời còn lại của anh.
Có tiếng bọn trẻ rộn rã ngoài sân, Hoài giục An:
- Anh mau lại ngồi trên ghế kia, và chúng ta sẽ nói chuyện này sau.
Suốt bữa ăn, Hoài thường ngồi cúi mặt và rất ít cười nói so với mọi ngày. Và thật ra thì không riêng gì Hoài mà ngay cả chính An, hai người đều không biết mình phải nói gì đây. Hùng thấy vậy lên tiếng:
- Hôm nay mẹ sao vậy? Nếu mệt để chúng con nói chuyện với bác An cũng được, mẹ lên giường nằm nghỉ nhé.
Thấy đề nghị của thằng Hùng cũng là cơ hội để giải tỏa bớt sự căng thẳng, Hoài gật đầu đồng ý:
- Thôi bác An thông cảm cho tôi, bác cứ dùng tự nhiên với các cháu cho vui nhé.
Chị Hai trêu Hoài:
- Hôm nay thấy các con về bày đặt nhõng nhẽo. Giỡn chơi chút nghe, nếu mệt em cứ đi nằm để chị tiếp bác An cũng được.
Lúc này trên bàn chỉ còn lại An và chị Hai. An vừa ăn vừa quan sát các con của mình. Chúng nó hồn nhiên và vô tư cười đùa, thật ra thì làm sao mà chúng nó biết được những đau đớn, hối hận đang giày vò trong lòng cha mẹ chúng. An ước muốn được ôm chầm lấy các con vào lòng nhưng không thể nào. Thỉnh thoảng chị Hai liếc mắt nhanh về phía An, chị biết rõ những gì đang xảy ra cho An, nhưng chị vờ như không hay biết gì cả. Ngọc Hương quay sang nhìn An:
- Bác…Ủa sao bác lại khóc?
- Đâu có! Ấy là do bác ăn phải quả ớt quá cay.
Ngọc Hương không tin:
- Ớt cay…Ở bên Mỹ con thấy bác ăn rất nhiều ớt; nhưng đâu có khi nào thấy bác bị chảy nước mắt?
An lấy khăn chầm chậm nước mắt:
- Nói chơi thôi, chứ nhìn mẹ các con, bác thấy thương quá không thể cầm được nước mắt.
Như đã lừa được bọn trẻ, An mỉm cười nói tiếp:
- Ăn nhanh lên, sau đó ta sẽ đi siêu thị nhé.
Bọn trẻ vỗ tay hò reo:
- Đúng rồi, đúng rồi. Và cả mẹ cùng với bác Hai đi nữa.

Dì Hiền đang quét dọn ngoài sân, chợt nghe tiếng chó sủa. Ngẩng mặt lên Dì nhận ra bé Hằng:
- Ô…Dì chào con, con về hồi nào vậy?
- Dạ. Cám ơn Dì con mới về. Dì vẫn khỏe chứ ạ?
- Dì cám ơn con.
 Trông thấy bé Hằng đi cùng với một người đàn ông, Dì Hiền hơi ngạc nhiên, Dì hỏi nhỏ bé Hằng:
 - Thế còn người này?
Bé Hằng liền trả lời:
- Dạ đây là bác An, trước kia bác ấy cùng làm chung với con ở xưởng mộc.
Dì Hiền khẽ gật đầu:
- Cám ơn ông đã tới thăm.
 An cũng cúi đầu chào đáp lại, rồi lấy quà trong giỏ ra biếu Dì.
- Con chào Dì. Lâu ngày về thăm quê, con có tí quà biếu Dì và các cháu.
Bé Hằng kể tiếp:
- Dì biết không, bác ấy rất tốt. Nếu không có bác ấy thì con đã bị điện giật chết lâu rồi. Sau đó bác ấy và con cùng đi chung trên chuyến ghe vượt biển.
Dì Hiền nghe bé Hằng nói thì trố mắt nhìn An:
- Ồ! Vậy hả? Thật là may cho con quá.
Bé Hằng nói tiếp:
- Chưa hết đâu dì ạ. Số là kỳ nọ đi trên ghe, lênh đênh cả tháng không còn gì ăn. Mọi người trên ghe bắt anh Hùng đòi giết ăn thịt, bác ấy đã xin được chết thay cho anh Hùng đó.
Dì Hiền mỉm cười:
- Tạ ơn Chúa Mẹ. Cám ơn bác An nhiều nhé.
Lúc này Dì Hiền mới nhận ra An. Sau đó Dì Hiền xin được gặp riêng An.
- Trước khi hỏi chuyện này, tôi thành thật xin lỗi ông nhé.
- Dạ không sao ạ. Xin Dì cứ tự nhiên.
- Việc ông đã có lần tới đây và xin lấy tấm hình của mẹ con bé Hằng. Lúc ấy tôi vẫn chưa hiểu vì sao ông lại hành động như thế? Nhưng rồi sau đó, khi chị Hai và chị Hoài tới thăm tôi. Họ đã sửng sốt khi nhìn thấy hình của hai mẹ con: cô Lý, bé Hằng. Và có một điều khiến hai người ấy thật sự hoảng hốt và lo sợ, khi biết rõ bé Hằng và thằng Hùng đều là con ruột của ông, và hai đứa chúng nó lại chuẩn bị kết nghĩa vợ chồng với nhau. Vậy ông đã báo cho bé Hằng biết nó là con ruột của ông chưa?
An ngồi nghe dì Hiền nói mà không ngờ mọi chuyện lại xảy ra hết sức oái ăm:
- Dạ, thời gian qua con vẫn đang nghi ngờ, mặc dù đôi lúc con thấy bé Hằng cầm lấy tấm hình của Lý, và nhận người trong đó là mẹ của mình. Bởi thế để tránh mọi chuyện ngộ nhận gây nhiều rắc rối, cho nên trong chuyến về thăm quê hương lần này, con có ý định tìm gặp Dì để xác minh lại mọi chuyện. Và những gì trước đây con không tin, nay lại là sự thật. Dì ơi, Dì có cách nào giúp cho chúng con và các cháu với...Con nghĩ là nếu mà chúng nó biết chuyện này, chúng nó sẽ rất buồn và rất khó để mà vượt qua được nỗi đau, một nỗi đau quá sức chịu đựng.
Ngừng một chút như để nuốt những nghẹn ngào đang dâng trào trong cổ họng mình, An nói tiếp:
- Dì ơi, thật quá tội nghiệp cho các cháu. Dì biết không, đợt này về…các cháu dự tính sẽ…tiến hành hôn lễ với nhau.
Nói tới đây, An gục đầu xuống bàn và khóc.
Nghe qua câu chuyện, Dì Hiền cũng thực sự xúc động, Dì thấy lòng mình như rối tung cả lên. Dì không ngờ mọi chuyện lại quá phức tạp và rất khó để giải quyết như vậy. Quay sang nhìn An dì hỏi:
- Thế bé Hằng vẫn chưa biết rõ nó là con của ông?
- Vâng. Việc này con cũng muốn nhờ dì, vì con nghĩ rằng nếu con nói ra, chưa chắc gì nó đã tin.
- Thôi chúng ta cùng vào Nhà Nguyện để cầu xin Thiên Chúa phù trợ cho việc này nhé. Ông đồng ý chứ?
- Vâng ạ. Cám ơn Dì.

- Mẹ ơi, việc của con và bé Hằng mẹ tính sao?
Nghe thằng Hùng hỏi, Hoài thở dài mà chưa biết phải nói với nó làm sao đây. Nàng vờ lảng sang chuyện khác:
- Các con vất vả nhiều rồi, mẹ nghĩ là nên đi du lịch vui chơi cho thoải mái, còn những chuyện khác để sau hẵng hay.
 Hùng nhìn mẹ:
- Mẹ ơi, thời gian chúng con về đây rất ít, chỉ còn không đầy hai tuần nữa là phải đi rồi.
Biết là không thể giấu con được mãi, Hoài kéo con ngồi xuống cạnh mình. Hoài đưa tay vuốt vuốt mái tóc của con rồi nói:
- Mẹ nghĩ là hai đứa chỉ nên xem nhau như là anh em thôi, vì lấy nhau rồi khổ lắm con ạ.
 Hùng vùng vằng:
- Trước đây khi còn ở Việt Nam, con đã nói chuyện này với mẹ, và mẹ cũng đã đồng ý rồi mà.
- Mẹ thấy hoàn cảnh của con như vầy, thật sự mẹ không muốn con phải khổ thêm.
- Mẹ cứ lo xa, bây giờ công ăn việc làm của hai đứa chúng con đã ổn định, chỉ có làm biếng thì mới sợ đói mà thôi.
Thấy con cứ nằn nì mãi cũng tội nghiệp, Hoài nhìn con thật lâu rồi nói:
- Mẹ chẳng biết nói thế nào cho con hiểu được. Hùng ơi con có thương mẹ không?
 Hùng lấy làm lạ, vì xưa nay đến giờ, mẹ nó vẫn biết là nó rất thương mẹ. Bỗng dưng hôm nay thấy mẹ hỏi vậy, nó rất ngạc nhiên:
- Mẹ sao vậy? Mẹ biết là trên đời này không ai thương mẹ bằng con mà.
- Mẹ cám ơn con, và Mẹ cũng vậy Hùng ạ, mẹ rất thương con. Mẹ thương con hơn cả bản thân mẹ. Nếu con thương mẹ, thì con hãy hứa với mẹ là sau khi mẹ nói chuyện này, con không được buồn nghe.
 Hùng không hiểu có chuyện gì ghê gớm lắm mà mẹ nó lại nói như vậy, nhưng để làm mẹ vui lòng, nó xin hứa:
- Mẹ cứ dạy bảo, con hứa là sẽ không buồn.
Hoài nhìn con thở dài rồi từ từ nói:
- Hùng ơi, sở dĩ mẹ nói con và bé Hằng không thể lấy được nhau là vì…
 Hùng nghe thế giật mình cắt lời mẹ:
- Tại sao lại không được hở mẹ?! Ai đã phá cuộc hôn nhân của chúng con?
Hoài âu yếm nhìn con:
- Không ai dám phá chuyện của con cả, nhưng Hùng ơi: con với bé Hằng là hai anh em ruột thì làm sao có thể lấy nhau được.
Hùng nghe mẹ nói xong liền ôm lấy đầu và gục xuống:
- Con không tin, nếu có chuyện như vậy…Tại sao ngay từ đầu, lúc chúng con mới quen nhau, mẹ không ngăn cản?
- Làm sao mà mẹ biết được.
Hùng gạt nước mắt:
- Mẹ ơi, không thể có chuyện như thế được, mẹ nói dối con, mẹ nói dối con.
Lúc này Hoài bắt đầu khóc, nàng thấy tội nghiệp cho thằng Hùng quá. Nàng suy nghĩ…chuyện gì thì còn có thể, nhưng chuyện này, chuyện hôn nhân của hai đứa, hai anh em ruột lấy nhau thì cho dù có phải chịu trăm ngàn đau thương, cũng không thể nào để cho nó xảy ra được. Quàng tay ôm lấy con mình, Hoài nấc nghẹn:
- Bác An chính là bố của con và bé Hằng.
 Hùng lại một lần nữa há hốc mồm ra:
- Con và bé Hằng… Bác An là bố của con và bé Hằng. Mẹ ơi, thật không hở mẹ? Mẹ nói cho con biết đi, tại sao lại có chuyện như thế được?
Hoài thong thả kể chuyện cho con nghe, bắt đầu từ lúc hai người lấy nhau, rồi bé Ngọc Hương ra đời. Và cho đến khi thằng Hùng còn trong bụng mẹ, mọi đổ vỡ đã bắt đầu từ đấy…
Nghe mẹ kể tới việc bố chia tay với mẹ cũng vì mình bị tàn tật, Hùng vẻ bực tức:
- Nếu ghét bỏ con, kể cả những người tàn tật khác…Tại sao ông ấy không để cho bọn người kia bắt con ăn thịt, mà lại sẵn sàng chịu chết thay cho con?
Sợ con mình nổi nóng lên thì hỏng hết mọi chuyện và tình cảm giữa chúng nó với An lâu nay bị đổ vỡ, Hoài liền nói:
- Hùng ạ, đã là người thì không ai mà không có những thiếu sót. Điều quan trọng là người đó có biết sửa chữa những sai sót đó hay không… Mẹ nghĩ là lương tâm của bố con cũng bị cắn rứt qua những việc ông ấy làm, vì thế bố con cũng muốn nhân cơ hội gặp gỡ này, tìm cách chuộc lại những lỗi lầm mắc phải của mình thời gian qua. Những lời kinh mẹ dạy cho con năm xưa: ‘xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…’Con còn nhớ không? Thôi con hãy vì Chúa và vì mẹ, tha thứ cho người đã sinh thành ra con.
Tuy rất bực tức với An, nhưng khi nhớ lại những gì ông ấy đã làm cho chúng nó, đầu tiên là ở xưởng mộc, rồi đến những việc xảy ra trên ghe, và trải qua những tháng ngày sống lưu lạc trên đất Mỹ, ông ấy đã đối xử rất tốt với bọn trẻ chúng nó… Hùng cũng cảm thấy nguôi ngoai phần nào.
- Vậy mẹ đã nhận ra bác An là bố chúng con từ bao giờ?
- Chắc con còn nhớ, sau ngày con bị bắt cóc rồi xin vào làm ở xưởng mộc, có lần con đã nói với mẹ về người đàn ông này. Và rồi bé Hằng đã chụp được hình của ông ấy, khi nhìn hình, mẹ biết rõ đó là bố của các con, nhưng vì ông ấy đã từ bỏ mẹ, nên mẹ không muốn cho các con biết.
- Vậy còn bé Hằng sao lại là con của ông ấy?
- Sau khi rời bỏ mẹ, ông ấy sống chung với cô Lý, và khi cô Lý mang thai, qua thăm khám ông ấy biết được bé Hằng bị dị tật sứt môi hở hàm ếch, thế là lại một lần nữa, ông ấy chia tay với cô Lý. Sau đó thì cô Lý sống một thân một mình, và do thường xuyên bị ốm đau bệnh tật, nên cô ấy phải gởi bé Hằng ở trại cô nhi, sau đó căn bệnh ung thư đã vĩnh viễn chấm dứt cuộc sống nơi dương gian của cô ấy. Riêng bé Hằng thì khi đã khôn lớn và không muốn sống ở trong trại nữa, nên đã trốn ra ngoài và gặp con đấy.
- Thật là tội nghiệp cho bé Hằng.
Ngọc Hương và bé Hằng vừa ra chợ mua thức ăn về làm cơm trưa, nhìn thấy đôi mắt của mẹ và Hùng đỏ hoe. Ngọc Hương tưởng hai mẹ con mới cãi nhau bèn hỏi:
- Lại có chuyện gì nữa đây? Độ này chị thấy Hùng hơi khó tính à nghen.
- Chị lại nói oan cho em rồi, không tin chị cứ hỏi mẹ thì biết.
Phần bé Hằng sau khi nghe biết được câu chuyện, do vấp phải cú sốc quá lớn nên đâm ra buồn bã, tối ngày đóng cửa lại và ở trong phòng một mình, nó từ chối và né tránh không tiếp xúc với bất kỳ ai, mọi người đã tìm nhiều phương cách, nhưng cũng không thể khuyên nhủ nó được.
Từ trại cô nhi, Dì Hiền cũng đã hay biết mọi chuyện. Trao gởi công việc lại cho các chị em khác, Dì tức tốc đón xe về nhà Hoài, vì Dì sợ rằng sự việc xảy đến quá bất ngờ, sẽ khiến cho bé Hằng không chịu đựng nỗi; biết đâu nó sẽ liều mình làm những chuyện không hay.
Đứng trước căn phòng của bé Hằng, Dì lắng tai nghe ngóng nhưng chẳng thấy động tĩnh gì. Sốt ruột Dì đưa tay gõ cửa và chờ đợi, nhưng rồi cũng chả có tín hiệu nào cả. Dì bèn gọi to lên:
- Hằng ơi, con mau mở cửa cho Dì. Dì đến thăm con nè.
Phải mất thêm vài phút nữa, bé Hằng mới chịu mở cửa. Đôi mắt nó đỏ hoe và sưng húp, có lẽ vì khóc quá nhiều. Đầu tóc nó rối bời và quần áo thì nhăn nhúm. Dì Hiền đưa tay ôm lấy bé Hằng vào lòng và vỗ về nó:
- Ngoan nào, con của Dì. Có chuyện gì làm con buồn kể Dì nghe với?
Như người sắp chết đuối vớ được mảnh phao, bé Hằng ôm chặt lấy Dì Hiền và khóc nức nở. Mặc cho bé Hằng gào khóc, Dì Hiền vẫn ngồi lặng thinh, vì Dì nghĩ rằng những giọt nước mắt sẽ làm trôi chảy bớt những uất ức trong lòng bé Hằng. Khóc được một lúc, nó nói với Dì:
- Dì ơi! Sao Chúa Mẹ lại bất công với con như vậy. Dì biết đấy, đời con đã không may mắn như nhiều người khác. Sống một thân một mình không cha không mẹ, bản thân lại bị sứt môi hở hàm ếch. Thế mà ông trời không thương con, lại lấy đi chút hạnh phúc đơn sơ nhỏ bé của con.
- Thôi con đừng buồn nữa. Nếu Chúa Mẹ không thương, thì con đã bị điện giật mất mạng lâu rồi, hơn nữa trên chuyến ghe vượt biển, nếu không có lời cầu nguyện của mẹ Hoài, và không có những người thân ra tay cứu giúp thì con đã bị ăn thịt rồi, đúng không? Con đừng than trách Chúa Mẹ nữa, mọi sự các Ngài đã an bài, định liệu. Con đã nhìn thấy các em bé ở trại cô nhi rồi chứ, các em ấy còn khổ hơn con rất nhiều, khi phải đi lại bằng hai tay, ăn uống phải có người mớm đút, và vệ sinh thì phải nhờ người khác làm thay, Dì thấy con được như vầy là còn may mắn lắm. Dì nhận thấy độ rày con rất đẹp, đâu có ai nghĩ rằng con bị dị tật sứt môi hở hàm ếch. Hằng yêu dấu của Dì, việc của con và Hùng là hậu quả đáng trách của những người làm cha làm mẹ, hơn nữa trong đạo lý thì việc anh em ruột lấy nhau là không thể được, không ai chấp nhận chuyện này. Dù hai con không thể ăn đời ở kiếp với nhau, nhưng tình thương máu mủ ruột thịt dành cho nhau vẫn tràn trề, đó là thứ hạnh phúc bất diệt rồi. Hằng ạ, hôn nhân có thể đổ vỡ và khó hàn gắn, nhưng đã là anh em ruột với nhau thì những đổ vỡ, bất hòa trong gia đình vẫn còn có cơ hội để xích lại gần nhau, con có hiểu Dì nói không?
Bé Hằng lí nhí:
- Dạ, con hiểu.

Rồi cũng đến ngày mọi người phải quay trở về bên Mỹ. Trên máy bay, ai nấy đều ngồi yên lặng suy nghĩ, họ không ngờ rằng chuyến về thăm quê hương lần này lại có quá nhiều buồn vui lẫn lộn, và có những bức xúc phải tìm cách giải quyết cho ổn thỏa, dù nó có làm đau đớn và tan nát hết cõi lòng…
- Hoài gặp lại An là người chồng cũ.
- Ngọc Hương và Hùng nhận ra Bé Hằng là em cùng cha khác mẹ với mình.
- An đã nhận ra những đứa con ruột của mình.
Tưởng rằng những chuyện như thế sẽ làm cho người ta vui sướng và hạnh phúc…Nhưng không, mọi chuyện không hề đơn giản chút nào. Nó đã làm thay đổi mọi sinh hoạt, những nghĩ suy và những tình cảm người người dành cho nhau trong cuộc sống thường nhật. Nó khiến cho mọi chuyện bị đảo lộn và rối tung cả lên…
Với thân phận tàn tật như Hùng, bị dị tật sứt môi phải vá như bé Hằng…rất khó để tìm một nữa còn lại cho đời mình. Tình thương yêu hai đứa dành cho nhau sau bao năm tháng, giờ đổi lại là tình anh em, mà tình anh em thì dù có thế nào đi nữa cũng không bằng tình yêu vợ chồng, một thứ tình dâng hiến cho nhau trọn vẹn và tất cả. Lúc này hai đứa chỉ còn biết nhìn nhau và trao cho nhau những nụ cười gượng gạo mà thôi. Bây giờ thì niềm vui cũng như nguồn an ủi duy nhất còn lại của hai đứa, đó là được sống bên cạnh người cha mà chúng nó tưởng chừng đã mất, đã chết, nay lại tìm thấy.
Trước khi ra đi Hùng đưa cho mẹ cuốn phim ‘Cuộc vượt biển kinh hoàng’, cuốn phim kể lại những gì mà Hùng và các chị em cùng mọi người, đã phải đương đầu trên chuyến ghe định mệnh đó. Nó nói với mẹ:
 - Mẹ ơi, ở nhà lâu lâu mẹ chiếu cuốn phim này xem cho đỡ buồn nhé.
- Xem rồi mẹ lại nhớ tới các con, chứ có được gì đâu.
 Hùng muốn mẹ mình xem lại cuốn phim, vì theo nhận định của nó, có thể mẹ chưa sẵn lòng tha thứ cho An, bố của nó. Nó nghĩ rằng đã là người thì ai mà không có thiếu sót, lầm lỗi. Nhưng qua việc bố của nó dám thí mạng mình và hy sinh để nó được sống, nó hy vọng sẽ lay động và làm sống lại trong Hoài một thứ tình cảm thiêng liêng mà không gì có thể chia cắt được.
Trở về lại Mỹ sau chuyến du lịch Việt Nam, An thường xuyên gọi điện thoại về cho Hoài. Lắm khi việc đó cũng làm cho Hoài bực mình, nhưng khi nhớ tới các con, Hoài miễn cưỡng nhấc máy lên nghe, vì nàng nghĩ rằng dẫu sao An cũng vừa là bố, vừa là ân nhân cứu mạng con mình.
- Hoài à…Sao mãi em vẫn chưa cho anh nói lời xin lỗi. Em còn bắt anh phải chờ đợi đến bao giờ nữa đây?!
- Mình kiếm chuyện gì nói cho vui, xin anh đừng nhắc nhiều về chuyện ấy nữa, em không thích.
Sở dĩ Hoài nói thế với An, vì mỗi khi nhớ lại cái tát nảy lửa năm xưa, Hoài thấy như mặt mình còn nóng rát lên. Với cái tát ấy thì Hoài còn có thể chịu đựng được, nhưng khi nghĩ tới câu nói của An, một câu nói hết sức lạnh lùng và tàn nhẫn; nó hệt như lưỡi dao của tên đao phủ hạ xuống kết liễu một con người: Bố mẹ tôi không muốn nhìn thấy đứa cháu đích tôn què quặt như vậy. Chỉ nghĩ tới đó thôi là những bực tức, căm hờn về con người của An, lại bốc lên ngùn ngụt trong Hoài, nhiều khi nàng cúp máy đột ngột làm cho ở phía bên kia, An cũng chẳng hiểu vì sao.

Trời vừa ửng sáng, Hoài bỗng thấy bác sỹ Loan tru tréo ngoài sân. Ngước mắt nhìn ra Hoài nhận thấy trên tay cô ấy mang rất nhiều những túi xốp. Hoài hỏi Loan:
- Hôm nay trốn việc phải không bà bác sỹ?
Loan chưa kịp trả lời thì đã nghe Hoài hỏi tiếp:
 - Này…bạn tính đi đâu mà tay xách nách mang nhiều đồ vậy?
Bác sỹ Loan bỉu môi nhìn Hoài
- Ủa mày không còn nhớ gì nữa hả Hoài? Hôm nay là sinh nhật của mày mà, bạn bè cùng lớp muốn tới đây chúc mừng mày, luôn tiện họp mặt với nhau, vì cũng đã lâu rồi tụi mình chưa gặp lại, đúng hông?
Hoài tươi cười đập mạnh vào tay Loan:
- Gớm... tao sắp chết đến nơi rồi, nhớ ngày sinh làm chi nữa?
Loan nhéo Hoài:
- Sao lúc nào mày cũng bi quan vậy…con cái đỗ đạt thành tài ở nước ngoài cả rồi, mai mốt đây tha hồ mà xài đô-la.
Hoài nhìn Loan:
- Đến tuổi này mà vẫn phải nhức đầu với quá nhiều chuyện, tụi mày đâu có biết.
- Biết chớ sao không, An thường xuyên gọi điện cho tao mà.
- Thế anh ta nói những gì?
Loan chưa kịp trả lời Hoài thì đã nghe thấy tiếng xe máy rộn ràng trước sân và tiếng các bạn trêu nhau ơi ới. Sau đó cả bọn kéo nhau vào nhà Hoài.
- Chúc mừng sinh nhật quý cô nương.
Và cùng hát vang: lâu lâu lâu thì ta mới nhậu một lần…Tiếng hát rộn rã vang lên, căn nhà của Hoài ngày ngày vốn im lặng nay bỗng trở nên náo nhiệt lạ thường. Chị Hai cũng khoác lên người bộ đồ màu hồng phấn rất đẹp, đôi môi chị ấy đỏ mộng dưới khuôn mặt trắng mịn. Chị đến gần bên Hoài cười nói:
- Chúc mừng em nhé. Thôi mau mau vào diện đồ mới đi chứ.
- Cám ơn chị.
Bữa tiệc sinh nhật của Hoài diễn ra hết sức vui vẻ và ấm tình bè bạn. Nhìn những khuôn mặt đỏ hồng bên cạnh những ly bia vàng óng, Hoài thấy mình như quên hết mọi âu sầu. Đang vui bác sỹ Loan bỗng nói:
- Tớ nghe nói là An có quay lại một cuốn phim kể về chuyến vượt biển kinh hoàng, Hoài chiếu lên cho mọi người xem với.
Sau tràng vỗ tay tán đồng của các bạn khác, cuốn phim đã được trình chiếu. Vui là thế, ồn ào là thế nhưng khi xem đến đoạn những người trên ghe giết nhau để ăn thịt, nhiều cô sợ quá hét toáng cả lên, quay mặt sang chỗ khác không dám xem tiếp, cánh đàn ông thì vừa xem vừa lắc đầu và thở dài. Tất cả mọi người không ai tin rằng những chuyện kinh khủng như thế lại xảy ra…Đến đoạn thằng Hùng sắp sửa bị ăn thịt đang gào la khóc lóc cầu cứu, không ai cầm nỗi được nước mắt. Phần Hoài đang xem phim mà cứ ngỡ con mình sắp gặp nguy hiểm cũng la to:
- Hùng con ơi! Ai đó cứu con tôi với.
Và khi cuốn phim đang chiếu tới đoạn An bị bọn người kia khống chế, mọi người nhìn thấy An tuy đang bị trói chặt hai tay, nhưng vẫn cố gắng quì gối xuống, cúi đầu van xin bọn người kia, nếu có đói hãy ăn thịt của mình và tha cho thằng Hùng. Ai nấy đều cảm phục và thương mến An đã có những hành động như vậy. Bộ phim kết thúc, nhưng các bạn của Hoài và chị Hai vẫn ngồi thừ người ra, mọi người dường như chưa hết bàng hoàng kinh hãi.
Sau đó bữa tiệc sinh nhật lại được tiếp tục, nhưng lúc này mọi người lại quay sang bàn tán về câu chuyện của Hoài và An nhiều hơn. Bác sỹ Loan khi xem xong bộ phim này, nàng cũng rất vui mừng và hy vọng mọi chuyện sẽ sớm được thay đổi.
- Hoài ạ, mình thấy An cũng tốt bụng và đâu đến nỗi như mọi người vẫn nghĩ. Tuy lúc đó An chưa nhận ra được các con của mình. Nhưng An đã dám làm cái chuyện mà chỉ có tình cha con và máu mủ ruột thịt, người ta mới dám hy sinh vậy thôi.
Hoài nhìn Loan:
- Ý cậu là muốn mình tha thứ cho An.
Loan ngắt lời Hoài:
- Chẳng những tha thứ mà tớ cũng như mọi người đang có mặt ở đây, đều muốn cậu và An làm hòa và chung sống lại với nhau.
Chị Hai cũng nói xen vào:
- Bác sỹ Loan nói đúng đấy Hoài ạ.
Cuối cùng thì bữa tiệc sinh nhật và họp mặt lớp cũng kết thúc. Mọi người chia tay Hoài và ra về. Ngoài những lời cầu chúc sinh nhật, họ còn nói lên điều ước mong, là một ngày gần đây sẽ được cùng uống chung với Hoài một ly rượu mừng ngày hạnh ngộ của hai người.

Thánh Lễ sáng Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh vừa tan, Hoài lăn chiếc xe đến gần tượng đài Chúa Giêsu, Đấng đầy Lòng Thương Xót. Ngước mắt lên Hoài nhìn thấy Ngài đang giơ tay ban ơn và mời gọi mọi người mau mau chạy đến ẩn náu trong Trái Tim của Người. Và hôm nay cũng là ngày Giáo Hội tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa, do đó Hoài muốn ra ngồi đây để cám ơn Chúa về những ơn lành mà Ngài đã ban cho Hoài và các con thời gian qua. Ngoài ra Hoài cũng muốn tâm sự và cầu xin với Chúa về những dự định sắp tới, trong đó có việc của nàng và An. Như thường lệ, mỗi chiều thứ sáu vào lúc lúc ba giờ, nàng vẫn quen đọc những lời kinh này, nhưng sao hôm nay khi đọc đến đoạn: ‘…Lạy Cha chỉ có mình cha mới phán xét con, cha không bao giờ từ chối khi con thống hối ăn năn chạy tới Lòng Thương Xót của Cha, nơi mà chưa một Linh Hồn nào bị từ chối, mặc dù họ là một Linh Hồn vô cùng tội lỗi…’ Hoài chợt nhận thấy rằng: mình không được phán xét An về những gì chàng đã gây ra cho nàng và các con…Tại sao Chúa không từ chối Lòng Thương Xót của Ngài khi nàng chạy đến với Ngài, trong khi nàng lại từ chối An, mặc dù chàng đã hối lỗi và muốn quay trở về? Nàng có xứng đáng để lãnh nhận Lòng Thương Xót của Chúa không?
Một bàn tay đặt nhè nhẹ lên vai làm Hoài giật mình. Quay mặt lại, Hoài sửng sốt khi nhận ra An. Hoài không hiểu chàng đã về khi nào và tại sao lại biết mình đang ở đây? Và chàng ra đây làm gì?
 Biết Hoài hơi bất ngờ với sự xuất hiện của mình, An lên tiếng:
- Chào em, anh đứng cầu nguyện nơi đây đã lâu; không biết Chúa có nhậm lời nguyện xin của anh không? Vì anh thấy mình quá tội lỗi và bất xứng.
Sau giây phút trấn tĩnh lại, Hoài lên tiếng:
- Chào anh, rất vui khi được gặp anh. Chắc anh còn nhớ lời Chúa Giêsu đã nói: ‘…Thà rằng trời đất này biến ra không, nhưng Lòng Thương Xót của Ta luôn ấp ủ một Linh Hồn tín thác…’Anh cứ tin thì anh sẽ được.
Nghe Hoài nói vậy, An quàng hai tay như muốn siết chặt lấy cổ Hoài, đoạn cúi xuống ghé miệng sát tai Hoài:
- Em cũng hãy cho anh lòng thương xót của em nhé.
Mặt Hoài ửng đỏ:
- Từ từ thôi, cho em vài hôm để suy nghĩ xem như thế nào đã.
An năn nỉ:
- Anh đã chờ đợi ngày này quá lâu rồi, Hoài ơi.
Không đợi cho Hoài trả lời, An hôn vội lên mái tóc, lên trán người vợ yêu dấu đã bao năm xa cách của mình. Hoài ngửa mặt lên nhìn An và hồi hộp chờ đợi ngày trở về của chồng…
Dìu Hoài ra khỏi sân Thánh Đường, An như mở cờ trong bụng:
- Anh sẽ đưa em đi một nơi thật xa, mãi cuối tận chân trời. Nơi đó chỉ có hai đứa mình thôi, em chịu không?
- Không em không đi đâu hết, các con của anh và em, chúng nó cần bờ vai của cha mẹ để nương tựa.

Vài ngày sau đó, An đưa Hoài đến liên hệ với trung tâm phục hồi chức năng để lắp cho Hoài một cái chân giả. Rồi ngày lại ngày qua, mọi người nhìn thấy một đôi tình nhân dìu nhau bước trên hè phố. Thoạt nhìn ai cũng ngỡ cặp tình nhân nào đó đang say đắm bên nhau. Thật ra cặp tình nhân đó không ai khác, mà chính là đôi vợ chồng An và Hoài, An đang tập cho Hoài làm quen với cái chân giả. Vì chưa quen nên thỉnh thoảng người ta lại thấy Hoài ngã chúi xuống, nhưng An đã kịp thời dang rộng vòng tay ôm đỡ lấy Hoài. Đi ngang qua quầy nước, chị Hai nhìn thấy bèn lớn tiếng trêu hai người:
- Thấy hai người tình tứ quá mà phát thèm.
Nghe thế Hoài bèn dừng lại:
- Thèm thì kiếm thêm ông nữa đi.
Chị Hai hóm hỉnh:
- Bây giờ nếu có kiếm thêm một ông về, cũng chỉ để đọc kinh cho có bè, cho đỡ mệt mà thôi.
Nghe chị Hai nói, mọi người cùng cười vang.
Phần chị Hai bán nước thì trước đây cũng có chồng con đề huề, lấy nhau về họ cũng được hai người con, đứa con gái lớn nay cũng đã thành gia thành thất rồi, chỉ còn đứa con trai út vừa đi học vừa phụ giúp mẹ trông coi quầy nước. Chồng chị chết trận không tìm thấy xác. Nhiều người tiếc thương cho chị, phải chịu cảnh mẹ hóa con côi khi tuổi đời còn quá trẻ, hơn nữa sắc đẹp của chị Hai thuộc vào hàng có tiếng ở trong làng, cho nên tuy đã hai mặt con nhưng trông chị ấy còn mặn mà lắm. Mấy gã đàn ông sồn sồn thường lân la tới quán nước trêu ghẹo, có kẻ ngỏ ý muốn được ăn đời ở kiếp với chị nốt quãng đời còn lại. Nhưng do buồn chán nên chị quyết định ở vậy nuôi con, ai thích ngắm nhìn hoặc trêu ghẹo chị thì cứ việc tới quán, chị không ngần ngại chi hết, càng đông càng mừng, càng bán được nhiều nước…miễn sao có tiền nuôi con. Phần chị thì sau khi đứa con gái lớn đã ra riêng, chị vẫn một thân một mình cùng với thằng út bán nước giải khát kiếm sống qua ngày. Ngoài những giờ bận rộn với quán nước, chị Hai cũng dành thời giờ tham gia vào hiệp hội Lòng Chúa Thương Xót, và thường xuyên đi thăm viếng người già yếu neo đơn, các trẻ em mồ côi…Chị Hai rất tốt với mọi người, ai đã gặp chị một lần đều rất cảm mến vì cách đối xử khéo léo và rất thật của chị. Còn nhớ một lần nọ chị đi quyên góp giúp các trẻ em bị nhiễm căn bệnh sida, một ông nhà giàu kia móc tiền trong túi ra, nhưng tìm mãi ông ấy không thấy có tiền lẻ bèn khất với chị lần sau:
- Thôi hẹn chị Hai lần sau nhé.
Chị Hai lắc đầu:
- Hình như lần trước bác có hẹn một lần nhưng đã quên.
Ông nhà giàu đắn đo:
- Hôm nào tôi sẽ cho luôn một thể, giờ đây tôi không có tiền lẻ.
Chị Hai vẫn chưa chịu thua lão nhà giàu keo kiệt:
- Vậy bác tính cho các em bao nhiêu, tôi có tiền thối đây.
Cuối cùng ông nhà giàu kia phải móc tiền đưa cho chị Hai, và đứng chờ chị Hai trả lại tiền thừa với gương mặt ửng đỏ, vì ông ấy thẹn với những người cùng đi với chị Hai. Chị Hai tươi cười cám ơn ông ấy nhưng cũng không quên để lại lời nhắn:
- Cám ơn bác rất nhiều, và xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho bác nhé, vì bác đã vâng nghe và thực hành lời Ngài ‘cho thì có phúc hơn là nhận’(Cv 20,35)
Những người trong nhóm hiệp hội Lòng Chúa Thương Xót, ai cũng lắc đầu với kiểu xin tiền của chị Hai:
- Kể ra ông ấy cũng còn nhẫn nhịn, chứ gặp bọn tôi thế nào chị cũng ăn đòn. Người gì mà đi xin cứ lải nhải và dai như đỉa, lại còn giở phúc âm ra trêu người ta nữa chứ.
Chị Hai nghiêm mặt lại:
- Mấy người nghĩ sao mà bảo tôi trêu? Ấy là tôi nói thật đấy, mình phải sống phúc âm giữa lòng dân tộc chứ.

Sau khi những người bạn cùng lớp giáo lý hôn nhân với Hùng và bé Hằng ở hải ngoại biết được những oái ăm trong câu chuyện tình của hai đứa, người thì chúc mừng, vì anh em ruột thịt đã gặp lại nhau sau một thời gian dài chia cách, nhưng cũng có kẻ cảm thấy xót xa và tiếc nuối cho duyên tình của hai đứa, vì thời gian chờ đợi để đến được với nhau cũng đã quá lâu. Nhưng rốt cuộc, dù có vui buồn hay tiếc nuối… nói chung là mọi người cảm thấy vẫn còn một chút may mắn, vì Thượng Đế đã kịp thời an định, nếu không chỉ còn một ít thời gian ngắn ngủi nữa thôi, là họ phải chứng kiến một cuộc hôn nhân trớ trêu và dở khóc dở cười, khi mà trong đó cô dâu và chú rễ là hai anh em ruột cùng cha khác mẹ với nhau.
Nỗi đau đã qua đi, nhưng người còn ở lại. Cả Hùng và bé Hằng đều biết rằng mọi ước muốn, mọi định đoạt cho việc hôn nhân của hai đứa là không thể xảy ra được. Do đó từ những người đang yêu nhau, đang vun vén hạnh phúc cho nhau, nay hai đứa phải cố gắng dẹp bỏ hết tất cả để xây dựng lại mối tình anh em. Ngày xưa khi đi làm thì chung đường chung lối, nay người ở đầu sông người cuối sông. An biết hai con mình cũng rất đau khổ, nên thường xuyên động viên an ủi. Chàng thường tổ chức những chuyến đi chơi xa đây đó cuối tuần, với hy vọng hai con sẽ vui thú, khi được nhìn ngắm cảnh quan thiên nhiên mà quên đi dĩ vãng buồn đau. Người ta thường nói: ‘thời gian là liều thuốc hữu hiệu chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn’. Hùng và bé Hằng lao đầu vào những công việc, và chính những bận rộn ngày thường đã giúp hai đứa chóng quên đi những chuyện cũ. Hùng theo bố An học nghề quay phim, còn bé Hằng thì xin vào làm trong một tiệm neo (nail). Ngoài ra hai đứa cũng dành chút thời gian cuối tuần để đi làm từ thiện.

Tai nạn máy bay xảy ra trên thế giới với mức độ ngày càng nhiều, đã làm chùn chân rất nhiều người Việt xa xứ muốn trở về thăm quê hương, trong đó có An, Hùng và bé Hằng. Và điều này khiến người ta lo sợ khi phải sử dụng đến phương tiện giao thông tối ưu và hiện đại nhất, so với các phương tiện đi lại khác hiện nay. Tuy thế đối với Hùng thì nỗi nhớ quê hương và mẹ không gì là có thể ngăn cản được. Đã gần hai năm rồi Hùng chưa về thăm mẹ, tuy sợ nhưng Hùng nghĩ con người ta có số có phận. Sau khi bàn tính với bố An, Hùng quyết định rủ rê bé Hằng cùng đi chơi với mình. Và bé Hằng cũng muốn nhân dịp về Việt Nam lần này, sẽ cùng với bố An thăm lại ngôi mộ của mẹ Lý, ghé thăm và tặng quà cho các Dì, các em bé mồ côi, khuyết tật ở trại cô nhi, vì thời gian xa cách cũng khá lâu rồi.
Việt Nam đang vào mưa, những cơn mưa nhiệt đới ẩm ướt và dai dẵng. Nép dưới hàng dương nơi mẹ Lý nằm yên giấc ngàn thu dưới đáy mộ, những giọt nước mắt hòa lẫn với nước mưa chảy dài trên khuôn mặt bé Hằng.
- Mẹ ơi…Con về thăm mẹ đây, vắng con mẹ có buồn không? Hôm nay có cả bố An cùng về với mẹ đây.
Đáp lại lời bé Hằng chỉ có tiếng mưa rơi rả rích và tiếng gió lay nhẹ những cành dương. An gục đầu đứng lặng yên, đôi vai chàng như rung lên từng chập. Có lẽ nỗi tiếc thương và sự hối hận đang giày vò An, khiến cho chàng chỉ biết dùng những giọt nước mắt thay cho những lời muốn nói. Bé Hằng vỗ nhẹ vào vai An và kéo chàng ngồi xuống. An kể lại cho con nghe mối tình giữa hai người, bắt đầu từ…
‘Sau khi ba kết hôn với cô Hoài, mẹ của chị Hương và anh Hùng. Ba đã xin vào làm ở công ty nơi có mẹ Lý của con cùng làm. Mẹ Lý của con hồi ấy rất đẹp, bao nhiêu chàng trai trẻ trong công ty quây quanh mẹ con tán tỉnh. Nhưng vì lúc ấy cái uy trưởng phòng của ba cũng làm cho họ hơi lép vế, mặc dù tất cả đều biết là ba đã có gia đình. Tuy nhiên để tán tỉnh nhân viên của sếp thì cũng phải nể mặt sếp chứ. Riêng ba, với bản chất người đàn ông thì chuyện gì có thể thiếu, chứ đối với chuyện tình cảm lăng nhăng với những người phụ nữ khác thì không bao giờ đủ cả. Và ba đã giữ lấy mẹ Lý lại cho mình. Lắm lúc ngồi nhìn về gia đình, ba cảm thấy mình đã quá đầy đủ và hạnh phúc lắm rồi. Cô Hoài lại là hoa khôi của lớp, nếu nói về sắc đẹp thì tuy mẹ Lý của con cũng đẹp nhưng không thể sánh ngang hàng với cô ấy được. Rồi qua những công việc hàng ngày giữa ba và mẹ Lý của con, do phải trao đổi, phải bàn bạc thảo luận với nhau…dần dà nó đã nảy sinh ra một thứ tình cảm mà khó lòng để hai người dứt bỏ được.
- Hằng ơi, con tha thứ cho ba nghe, tội của ba lớn lắm.
 Khi cô Hoài mang thai, lúc đi khám các bác sỹ bảo rằng thai nhi bị khuyết tật và khuyên ba phá bỏ. Ba quyết định bỏ đứa con này, nhưng cô Hoài không chịu nghe. Rồi sau đó ba và cô Hoài chia tay nhau. Hằng ơi, con có biết đứa bé đó là ai không?
- Có phải là anh Hùng không hở ba?
- Đúng vậy, đứa bé đó chính là anh Hùng.
Giờ đây mỗi lúc nhìn thấy Hùng, ba thật sự rất hối hận, và ba nghĩ rằng việc nó bị tàn tật là do thiên bẩm, chứ nó nào đâu muốn thế, ấy vậy mà ba đã cố tình đòi giết bỏ nó…Không biết nó có còn hận ba và sẵn lòng tha thứ cho ba không?
- Anh Hùng không chết, con nghĩ một phần cũng do ý trời, một phần là do cô Hoài. Nhưng việc mà ba đã dám hy sinh thân mình để cứu anh ấy khi ở trên ghe, bấy nhiêu đó đủ để anh Hùng tha thứ và biết ơn ba rất nhiều.
Cuối cùng thì sau khi từ bỏ cô Hoài và đứa con trong bụng đang chờ ngày sinh nở. Ba và mẹ Lý đã chung sống với nhau như vợ chồng. Và kết quả của mối tình bất chính này là mẹ Lý đã có với ba một đứa con, và đứa con đó chính là con đấy Hằng ơi…
- Nghe ba kể, con không hiểu là tại sao cuộc tình giữa ba và mẹ Lý đang tốt đẹp, hạnh phúc như vậy, bỗng dưng lại đổ vỡ?
- Con đừng buồn ba nhé.
- Vâng.
Số là khi mẹ Lý đang mang thai, sau khi phát hiện ra thai nhi bị dị tật sứt môi, ba cũng bỏ ra đi. Và cũng như lần trước, ba quyết định dứt bỏ và chạy trốn, vì không muốn chứng kiến những đứa con bệnh hoạn ra đời. Nhưng rồi đúng như người ta vẫn thường nói: ‘Ghét của nào trời trao cho của nấy’, và ba không thể tránh né được số phận của mình. Thật tội nghiệp cho mẹ Lý của con, sinh con ra vì bị người người hất hủi, bỏ rơi. Do buồn chán nên mẹ con bị ốm đau bệnh tật, phải gởi con vào trại cô nhi, và sau đó thì lẳng lặng ra đi trong cô đơn, bên cạnh không có lấy một bóng dáng người thân, không một nén nhang và vòng hoa tiễn biệt.’
Kể tới đây, hai bố con cùng ôm nhau khóc ròng.

Khí hậu trên trái đất bây giờ thay đổi rất khác thường, như những năm trước thì vào dịp chuẩn bị cho mùa noel, thời tiết ở Việt Nam tương đối mát mẻ, sáng ra còn có chút se se lạnh, nhiều người có việc phải đi ra đường, cũng tranh thủ khoác lên mình chiếc áo len mỏng để giữ ấm, và ban trưa thì có nắng nhưng nắng rất nhẹ, không đủ nóng để làm đen khuôn mặt của các cô gái mới lớn. Thế nhưng năm nay nó bỗng trở nên oi bức ngột ngạt. Thiên hạ kéo nhau xuôi xuống biển tránh nóng, với hy vọng tìm được chút gió mát từ khơi xa thổi về. Riêng Hoài cũng vậy, vì không muốn cho con mình phải chịu cảnh mồ hôi chảy dầm dề, do ảnh hưởng bởi cái nắng nóng gay gắt ở Việt Nam, Hoài bèn rủ rê chị Hai thuê xe đi tắm biển. Nghe Hoài nói, chị Hai tán thành ngay vì đứa con trai út của chị là Tâm, cũng vừa làm xong luận án tiến sỹ y học. Do đó chị cũng muốn cho con mình được thư giãn đôi chút sau những ngày tháng miệt mài với đèn sách.
Bãi biển Vũng Tàu chiều nay rất đông người. Những con sóng nhỏ tung tăng chạy nhảy, và sau đó ập vào bờ, ôm lấy bước chân của người du khách đang thả bộ trên bãi cát dài. Ngồi vọc tay đùa nghịch với những hạt cát vàng mịn, bé Hằng chờ đợi anh Hùng đang mãi mê vui đùa với những con sóng bạc đầu ngoài kia. Những hạt cát trôi ra khỏi tay bé Hằng theo từng đợt sóng, bé Hằng cố gắng nắm chặt lấy nó nhưng không thể, nó như cái hạnh phúc bé nhỏ của Hằng chợt ập đến rồi đi mà không hề báo trước, không thể nắm giữ được. Trải qua nhiều chuyện nhức đầu trong thời gian qua, bé Hằng thấy cuộc đời này nhiều khi thật phũ phàng và vô vị, có lúc thì nó mang đến cho ta những nụ cười cùng những niềm vui khôn xiết, lúc khác nó lại dìm ta chìm sâu trong nỗi buồn mênh mang, tưởng chừng như không gì có thể khỏa lấp được…
Mãi suy nghĩ vẫn vơ, Một bàn chân ai đó giẫm lên những giòng chữ nguệch ngoạc bé Hằng vừa vẽ trên cát. Ngước mắt lên, bé Hằng nhận ra Tâm con trai út của cô Hai bán nước. Mỉm cười nhìn Tâm, bé Hằng nói:
- Bắt đền anh đó nghe, dám phá của người ta.
Tâm từ từ ngồi xuống bên cạnh bé Hằng:
- Thế Hằng muốn Tâm đền cho cái gì?
Bé Hằng cúi xuống suy nghĩ:
- Cái này phải đợi Hằng về hỏi bố đã.
Tâm phá lên cười, bé Hằng nhận thấy phía sau khuôn mặt thư sinh ấy, Tâm sở hữu một nụ cười rất là có duyên. Hai hàm răng trắng bóng và đều tăm tắp ẩn sâu dưới sắc hồng của đôi môi. Nụ cười ấy như xoáy sâu vào đôi mắt của bé Hằng, nó khiến cho bé Hằng đứng ngây người ra. Từ sau ngày bé Hằng và Hùng đã nhận ra nhau là anh em ruột, và chấm dứt mối tình ngang trái ấy. Bé Hằng chả muốn nghĩ tới việc kết bạn với một anh chàng nào nữa cả. Nó sợ những cuộc tình mới rồi cũng sẽ gây ra cho nó nhiều đau khổ như mối tình đầu; một mối tình đã làm hao tốn không biết bao nhiêu là nước mắt của nó.
- Ơ…này anh chị kia, đã quá giờ rồi mau lên ăn trưa thôi.
Tâm và bé Hằng cùng đứng lên sau tiếng gọi của chị Hai. Nhìn hai đứa tuy mới chỉ vừa quen nhau, nhưng chị Hai không biết chúng nó có chuyện gì mà cứ rủ rỉ với nhau. Chị Hai nói tiếp:
- Ngồi vào đây, có gì vừa ăn vừa nói cho mọi người nghe với, được không?
- Dạ thưa mẹ đâu có chuyện gì mà kể. Tâm mỉm cười nhìn mẹ trả lời.
Phần bé Hằng, suốt bữa ăn nó không nói một lời nào, mọi người chẳng hiểu vì sao con chim họa mi ngày thường vẫn hay hót, sao hôm nay bỗng dưng tắt tiếng? Lâu lâu lại thấy bé Hằng lấm lét nhìn trộm Tâm, và ở dãy bàn bên kia Tâm cũng liếc nhanh về phía bé Hằng, thỉnh thoảng bốn con mắt ấy vô tình bắt gặp nhau, khiến cả hai cùng e thẹn cúi nhanh xuống bàn.
Thật đúng là không có gì qua mặt được người lớn, trở về lại nhà trên chuyến xe, khen ai đã khéo vẽ bày thu xếp cho bé Hằng và Tâm ngồi chung ghế với nhau. Cuối cùng thì những bỡ ngỡ e thẹn lúc đầu đã nhường chỗ cho đôi bạn trẻ, hai đứa lúc này đã nói chuyện cởi mở với nhau hơn. Thỉnh thoảng bánh xe lọt vào những ổ gà trên đường khiến xe chao đảo, và người ngồi trong xe thì như bị hất tung lên. Bỗng có tiếng phanh xe rít lên do thắng gấp, bé Hằng thấy mình như bị ai đó dựng đứng dậy, đầu của nó va vào trần của chiếc xe đau buốt. Bé Hằng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, thì thấy chiếc xe bị lắc dữ dội và nghiêng hẳn sang một bên, khiến nó chới với mất thăng bằng ngã người về phía sau và ngồi hẳn lên người Tâm. Quá bất ngờ và theo phản ứng tự nhiên, Tâm giơ tay đỡ và ôm chặt bé Hằng vào lòng mình. Chiếc xe đã đi qua đoạn đường gập ghềnh, lúc này bé Hằng mới nhận thấy mình đang ngồi trên người của Tâm và Tâm thì đang ôm chặt lấy nó. Trên xe mọi người trố mắt nhìn làm hai đứa rất ngại ngùng… Tâm vội buông tay ra và bé Hằng nhanh chóng trở về ngồi lại chỗ cũ của mình. Để đánh lạc sự chú ý của mọi người qua sự việc vừa xảy ra, Tâm giả vờ nói to:
- Đường sá bây giờ quá tệ!
Cuối cùng thì mọi người cũng về đến nhà, bé Hằng bịn rịn chia tay với Tâm, người bạn mới quen mà trong lòng dâng trào những cảm xúc khó tả.
Bữa cơm tối vừa xong, hai mẹ con chị Hai ngồi uống nước. Chị Hai âu yếm nhìn con hỏi nhỏ:
- Hôm nay con đi chơi có thấy vui không?
- Vui lắm mẹ ạ.
- Thế con thấy bé Hằng được chứ?
Tâm không hiểu ý mẹ:
- Mẹ nói vậy nghĩa là làm sao?
Chị Hai nguýt yêu con mình:
- Gớm còn bày đặt nữa…ý mẹ là bây giờ con đã học xong, và mẹ nhận thấy con cũng đã khôn lớn và trưởng thành rồi. Vì thế mẹ muốn tìm kiếm cho con một người bạn đời.
Tâm vùng vằng với mẹ:
- Sao mẹ vội vàng vậy. Để từ từ con ổn định công ăn việc làm rồi hẵng tính.
Chị Hai phân bua với con:
- Mẹ biết chớ, nhưng phải nói thật là thời gian bé Hằng về chơi rất ít.
- Mẹ à, thời gian rất ít nhưng con nghĩ là vẫn còn có cơ hội. Hơn nữa con vẫn chưa hiểu nhiều về Hằng lắm mẹ ạ.
- Mẹ biết chuyện này rất quan trọng, nên mẹ cũng đã suy nghĩ và xem xét cẩn thận. Hơn nữa hai gia đình đã từng qua lại với nhau, hiểu rõ về nhau rất nhiều và thân thiết như người một nhà. Vì thế việc mẹ muốn con làm bạn với bé Hằng, mẹ thấy không cần phải đắn đo suy nghĩ nhiều nữa. Thời gian vừa qua đã cho mẹ tin rằng những gì mình tính toán là đúng. Nói là nói vậy thôi chứ chưa chắc gì bé Hằng đã chịu nghe đâu. Vì dẫu sao cô ấy cũng vừa mới trải qua một cuộc tình éo le, khi phải chia tay với người tình mà người tình đó lại là anh ruột của mình. Chuyện đã qua nhưng ít nhiều gì nó cũng để lại cho bé Hằng những nỗi khổ đau chứ. Do đó, theo mẹ nghĩ thì bé Hằng chưa thể nào quên được những chuyện vừa xảy ra một cách nhanh chóng đến thế. Và nếu mà đặt vấn đề hôn nhân với bé Hằng lúc này, mẹ chỉ sợ quá sớm để cô ấy có thể nhận lời. Do đó trước khi bé Hằng rời khỏi Việt Nam, mẹ muốn nói chuyện này với bố của bé Hằng, để xem ý của ông ấy thế nào. Ấy là mẹ nói vậy, và mọi chuyện rồi sẽ ra sao còn phụ thuộc vào tình cảm của hai đứa nữa chứ, thời gian còn dài mà, các con cứ việc tìm hiểu nhau cho thật kỹ càng.

Từ ngày biết bé Hằng làm quen với Tâm, con của chị Hai bán nước giải khát. Hùng trở nên buồn xo vì bé Hằng lúc này lại chỉ tập trung vào đối tượng mới, và Hùng thấy mình giống như người bị bỏ rơi. Lắm khi buồn chán hoặc rãnh rỗi, Hùng đánh xe tới rủ em gái mình đi chơi, nhưng lại thất vọng vì thấy bé Hằng lúc nào cũng ôm khư khư lấy cái điện thoại, không nói ra thì Hùng cũng hiểu là cô ấy đang tán gẫu, đang tâm tình với bạn trai.
Quay xe lại Hùng tính về nhà nằm ngủ cho chóng hết thời gian. Khi đi ngang qua sòng bài cạnh quán cà phê mà Hùng thường ngồi thưởng thức, bất chợt Hùng thấy có ai đó đang giơ tay vẫy gọi mình. Sau khi chạy đến gần và tấp xe vào lề, Hùng nhận ra một anh bạn trên chuyến ghe vượt biên, trước đó hai người đã từng suýt đánh nhau, vì Hùng tranh giành miếng thịt người trên tay anh ta đưa cho chị Ngọc Hương của mình. Sau này khi nơi ăn chốn ở trên đất Mỹ đã ổn định, hai người bắt tay nhau làm hòa và thường cùng nhau đi uống cà phê ở quán này.
- Độ này trông thấy cậu buồn thế hở Hùng? Thất tình hả?
Hùng tươi cười:
- Bình thường thôi. Không phải tớ bị thất tình, nhưng là đem tình cho người khác.
- Cậu nói gì tớ vẫn chưa hiểu. Anh bạn kia thắc mắc.
Hùng giải thích:
- Nghĩa là đang yêu, nhưng không được yêu và phải đưa tình yêu đó cho người chưa biết yêu…thế thôi.
Thấy Hùng cứ vòng vo, anh bạn kia bèn rủ Hùng:
- Thôi bọn mình qua bên sòng bài kia đánh vài ván xả xui đi.
Thấy Hùng chần chừ anh bạn kia cầm tay Hùng lôi đi.
Hai đứa vào ngồi trong sòng bài một lúc thì Hùng đứng dậy và nói:
- Xả xui gì mà hết nửa tháng lương của tớ rồi, thôi tớ về đây, càng xả càng xui thêm. Chào cậu.
Nói xong bỏ mặc anh bạn kia ngồi lại một mình, Hùng băng qua đường nổ máy xe và chạy vù đi.
Về đến nhà, Hùng chẳng buồn thay quần áo và cứ để vậy mà leo lên giường nằm. An thấy vậy bèn hỏi con:
- Bộ đi chơi về có chuyện gì buồn hay sao mà mặt mày ủ rủ vậy?
Thay vì trả lời bố, Hùng quay mặt vào trong vách và nằm yên. An biết rất rõ tính của Hùng là khi bực bội, không bao giờ nó nói chuyện với ai. Từ ngày chuyện tình của nó và bé Hằng có kết cục không như mong muốn, nó trở nên chán nản, thất vọng và buồn bã. Và cho dù bé Hằng là em ruột của nó, nhưng khi thấy bé Hằng có đối tượng mới; lẽ đương nhiên nó cũng chẳng mấy vui thích, vì không muốn bé Hằng san sẻ tình cảm cho ai ngoài nó. An thở dài và đứng lên, chàng định bụng sẽ ra quầy bar uống chút rượu cho vơi bớt nỗi ưu tư đang nặng trĩu trong lòng.
Phần bé Hằng nhiều khi thấy anh Hùng của mình độ rày bỗng thay đổi tính tình cách lạ lùng, lắm khi chưa mưa thì đã nắng, có lúc đang vui đùa đột nhiên trở nên tư lự buồn xo…chả ai hiểu vì sao cả. Một ngày nọ bé Hằng nhìn Hùng:
- Trước khi nói, em xin lỗi nếu không phải nhé!
- Ô kê
- Hình như anh không thích em làm quen và nói chuyện với anh Tâm phải không?
Hùng chối bai bải:
- Đâu có.
Bé Hằng nói tiếp:
- Nếu vậy thì thôi, em không quen nữa. Tụi em chỉ mới nói chuyện cho vui thôi mà, đã có gì đâu.
Hùng nhìn em mình:
- Ấy ấy đừng nghĩ thế mà tội nghiệp cho anh, anh rất thương em. Đôi lúc anh buồn vì chỉ sợ em quen với người ta rồi xa lánh anh.
Bé Hằng mếu máo như muốn khóc:
- Anh bao giờ cũng vẫn là anh của em, chỉ tại định mệnh đã an bài sắp đặt, nên anh em mình phải chịu, chớ lòng em nào muốn. Anh có hiểu cho em không?
Hùng nghẹn ngào:
- Cho anh xin lỗi nhé.
Vẻ mặt bé Hằng buồn bã:
- Em chỉ nghĩ là quen nhau cho vui, chứ xấu xí và bị vá môi như em, chắc gì người ta thèm yêu thương em. Anh hãy nhìn cho kỹ nè.
Nói xong bé Hằng dí sát mặt vào anh mình và đưa tay chỉ lên vết khâu vá ở môi, tuy y khoa bây giờ có tiến bộ, mổ xẻ rất thẩm mỹ, nhưng cũng không thể xóa hết vết hằn của sự chắp vá vẫn còn lưu lại trên khuôn mặt của bé Hằng.
- Ngay cả em, em cũng còn nhận thấy mình xấu xí huống gì người khác.
Nghe em mình nói vậy, Hùng đưa tay vuốt nhẹ lên mái tóc của bé Hằng và an ủi:
- Đâu có…em vẫn đẹp mà. Anh nói thật.

Vì trong nước không đủ điều kiện cũng như trang thiết bị, để Tâm hoàn thành những chế tác của mình hầu phục vụ cho ngành y. Do đó bắt buộc Tâm phải đi ra nước ngoài để theo đuổi nguyện vọng của mình, và nơi có đầy đủ phương tiện tối ưu cho Tâm đó chính là nước Mỹ. Giã từ mẹ, Tâm lên đường. Thời gian theo dự định sẽ là sáu tháng, và Tâm muốn đặt công việc nghiên cứu của mình lên hàng đầu, nên chàng cũng không muốn cho bé Hằng biết về sự xuất hiện của mình tại đất Mỹ. Tuy nhiên có một điều làm Tâm không ngờ là khi máy bay vừa đáp xuống phi trường, và trong khi Tâm đang mãi mê lục tìm lấy địa chỉ của nơi mà mình cần đến, thì thấy có bàn tay ai đó đặt nhẹ lên vai, giật mình Tâm quay lại thì nhận ra bé Hằng và cả Hùng nữa. Hai người đang đứng đợi Tâm. Lấy làm lạ Tâm liền hỏi:
- Ủa sao mọi người biết Tâm qua đây mà đến đón?
Hùng mỉm cười:
- Thôi chúng ta về nhà nghỉ trước đã, mọi chuyện sẽ nói sau nhé!
Thì ra trong lúc Tâm đang chuẩn bị đáp chuyến bay thì Hoài đã gọi điện thoại báo tin cho Hùng. Ý của Hoài là muốn Hùng giúp đỡ cho Tâm tránh những bỡ ngỡ nơi đất khách quê người, khi vừa mới chân ướt chân ráo đến Mỹ, ngoài ra Hoài cũng muốn báo đáp lại chút ân tình mà lâu nay chị Hai vẫn dành cho mẹ con Hoài.
Bữa cơm chiều cũng là bữa ăn hội ngộ đầu tiên trên đất Mỹ, Tâm rất cảm động vì chàng không ngờ ở một nơi chốn xa lạ, lại gặp thấy được nhiều nguồn an ủi, và trong đó niềm vui lớn nhất là gặp lại được bé Hằng, người bạn gái mới vừa quen. Suốt bữa ăn, bé Hằng chỉ nhìn Tâm cười và không nói gì, chỉ đến khi hai đứa cùng ngồi bên ấm trà xanh và thưởng thức những phong kẹo đậu phộng giòn rụm mà Tâm vừa mang từ Việt Nam qua biếu tặng, bé Hằng mới lên tiếng:
- Thật là rất vui khi gặp được anh, chẳng hay anh qua đây có việc gì không?
- À anh qua đây để nghiên cứu một số đề án về y khoa.
Bé Hằng nhìn Tâm lém lỉnh:
- Ngoài ra còn việc gì nữa không?
Tâm cười:
- Việc thì nhiều, nhưng thôi không nói. Bây giờ phải ưu tiên cho nàng y trước đã, còn lại nàng khác thì tính sau…được chưa?
Bé Hằng lườm lườm Tâm:
- Đúng rồi, nàng này xấu xí mà.
Chuyến qua Mỹ lần này, Tâm dự tính là sẽ dành hết thời gian, cho những nghiên cứu về một loại thuốc làm xóa tan những vết sẹo trên cơ thể con người sau phẫu thuật. Kể từ ngày quen bé Hằng, và biết bé Hằng thường mang nặng mặc cảm về những khiếm khuyết trên khuôn mặt mình. Do đó trong Tâm bỗng nảy sinh ý nghĩ là phải sáng chế ra một loại thuốc có khả năng này, chính vì vậy mà nó đã làm cho chàng trăn trở bấy lâu. Sở dĩ Tâm không nói cho bé Hằng biết, vì chàng muốn dành cho bé Hằng một sự bất ngờ lớn ngoài sức tưởng tượng của cô ấy. Và Tâm hy vọng đó sẽ là món quà tuyệt vời cho bé Hằng, người yêu tương lai, và kể cả những người khác ngoài bé Hằng.
Cùng với sự hợp tác của những chuyên gia về ngành y ở nước ngoài, và trải qua những thử nghiệm trên các loài vật nuôi, cuối cùng đã cho thấy kết quả thật là khả quan, Tâm nhảy lên reo hò sung sướng. Chàng cúi gập người trước bàn thờ cám ơn Chúa Mẹ, đã ban tặng cho chàng tìm ra được một loại thuốc quý giá, để qua đó, chàng có thể giúp ích cho nhiều người bớt đi sự tự ti mặc cảm, và tìm lại được chút nhan sắc trong cuộc sống.
- Chỉ còn vài hôm nữa là anh phải quay trở lại Việt Nam. Tâm nắm tay bé Hằng và nói.
Bé Hằng đang vui bỗng trở nên buồn buồn:
- Ôi thời gian trôi nhanh quá phải không anh, mới đó mà đã… Vậy anh có định khi nào sẽ qua bên này nữa không?
Quay nhìn bé Hằng, Tâm nói:
- Công việc đã hoàn thành, bây giờ phải về báo cáo với lãnh đạo.
 - Chúc mừng anh nhé.
- Thế em tính sao? Có về Việt Nam chơi không? Anh sẽ tổ chức ăn mừng thành quả này, mời em.
- Để em thu xếp đã.
Đón hai đứa tại phi trường, chị Hai rưng rưng nước mắt ôm chặt lấy con:
- Mẹ chúc mừng con, con trai yêu dấu của mẹ.
Quay sang bé Hằng, chị Hai cũng ôm nó vào lòng:
- Bác cám ơn con rất nhiều, vì đã giúp đỡ Tâm trong thời gian công tác ở bên đó.
Bé Hằng tươi cười:
- Bác đừng bận tâm, chuyện bình thường mà, có gì đâu.
Qua hôm sau, Tâm để bé Hằng ở nhà chơi với mẹ, chàng vội lên cơ quan để báo cáo lại thành tựu này với lãnh đạo. Mọi người cùng vỗ tay reo hò chúc mừng Tâm. Riêng Tâm, vì đã có ý định từ trước là sẽ dành cho bé Hằng sự bất ngờ lớn lao khi nhận được món quà này, và chàng hy vọng cô ấy sẽ rất vui thích với món quà tâm huyết của mình. Ngoài mẹ mình ra, Tâm cũng gởi thiệp mời cô Hoài và Bé Hằng đến tham dự tiệc chung vui với mình. Tàn bữa tiệc mừng, mọi người cùng ra về. Riêng Tâm, vì một số đông khách mời muốn được chúc mừng thành quả, và muốn được cùng nâng ly với nhà nghiên cứu trẻ, do đó Tâm đã uống quá nhiều và bạn bè phải dìu chàng lên xe taxi để về nhà. Ngồi cạnh bé Hằng, vì quá say nên Tâm không còn biết trời trăng gì nữa, chàng gục đầu dựa vào vai bé Hằng ngủ ngon lành. Bên kia, bé Hằng cũng đã thấm mệt nên ngã đầu vào vai ghế lim dim.
Một tiếng động lớn phát ra và cú va chạm mạnh đã khiến chiếc xe taxi bị hất tung lên và lăn lộn mấy vòng. Bé Hằng cảm thấy đầu óc mình đau ê ẩm như bị ai đó cầm búa giáng vào, mở mắt nhìn sang bên cạnh, bé Hằng hoảng hốt khi không thấy Tâm đâu cả. Bỗng nghe bên ngoài xe có tiếng ai đó hét to:
- Chết người rồi.
Linh tính như mách bảo bé Hằng có điều không hay xảy đến với Tâm, cô ấy cố gắng ngồi lên và đạp mạnh vào cửa xe để thoát ra ngoài, nhưng rồi những cố gắng của cô ấy, cũng không thể làm cho cánh cửa xe nhúc nhích được chút nào. Nghe tiếng động, một số người lấy xà beng và búa chạy lại cạy cửa xe và đưa bé Hằng ra ngoài.
Từ xa, bé Hằng nhìn thấy Tâm nằm bất động trên đường, phía trên đầu chàng một vũng máu đỏ tươi làm ướt cả một khoảnh đường. Chị Hai mẹ của Tâm, đang ngồi cạnh đó ôm xác con mình kêu khóc thảm thiết. Trông thấy vậy, bé Hằng cố gắng đứng lên nhưng không thể được, cú va đập quá mạnh làm cô ấy choáng váng. Bò lê lết dần về nơi Tâm đang nằm, bé Hằng cầm lấy tay chàng và lay gọi, không một chút mảy may hy vọng, Tâm vẫn nằm yên không nhúc nhích. Đoán biết điều tồi tệ nhất đã xảy đến với chàng, bé Hằng ôm lấy chàng khóc lóc vật vã:
- Anh Tâm ơi, chỉ mới ít phút trước đây, anh nói rằng anh sẽ yêu thương và lo lắng cho em suốt cuộc đời… Anh quên rồi sao? Cớ sao anh lại bỏ em mà đi. Tội nghiệp anh quá! Trời ơi! Sao tôi lại khổ thế này?!
Một lọ thuốc từ trong túi áo của Tâm lăn ra và rớt cạnh đấy, bé Hằng nhặt lên và nhận thấy bên ngoài cái lọ được bọc một mảnh giấy. Cầm lấy và bóc vội mảnh giấy ra, những giòng chữ ghi trên đó như vẫn còn thơm mùi mực mới mà Tâm muốn gởi cho bé Hằng…
‘Hằng ơi, ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ, anh đã cảm mến em và anh nhận thấy rằng anh không thể sống mà thiếu em. Cũng vì yêu em, nên anh đã nguyện với lòng mình rằng: anh sẽ làm cho ước muốn của em được thành sự thật. Cuối cùng đội ơn Chúa Mẹ đã giúp cho anh được hoàn thành ý nguyện ấy, và đây là món quà nhỏ thay cho ngàn lời anh muốn nói với em, anh xin được trao gởi về em. Anh mong rằng khi em cầm nó trên tay, em sẽ thấy anh luôn luôn ở bên cạnh em. Cầu chúc cho em mãi mãi là thiên thần nhỏ bé, xinh đẹp của lòng anh.’
Đọc xong những giòng chữ ngắn ngủi Tâm viết ở trên, bé Hằng gục xuống ôm lấy thi thể lạnh giá của Tâm và cất tiếng gọi… Anh Tâm ơi… Anh Tâm yêu dấu của em… Rồi cô ấy ngã lăn ra bất tỉnh. Người đi đường thấy vậy vực dìu bé Hằng lên, và đưa vào trong hiên nhà cạnh đấy.
Tỉnh lại trong bệnh viện, bé Hằng ngồi lên và dụi mắt, vẻ mặt ngơ ngác như không hiểu có chuyện gì vừa xảy ra với mình, và tại sao mình lại nằm ở đây? Rồi đột nhiên bé Hằng khóc tru tréo lên, các cô y tá vội vàng chạy đến và khuyên nhủ:
- Thôi bề gì thì anh ấy cũng đã mất rồi, chị cố gắng gìn giữ sức khỏe.
Đôi mắt bé Hằng sưng múp lên, có lẽ do khóc thương Tâm quá nhiều. Cô ấy ngồi yên lặng vẻ mặt thẫn thờ, không ngờ mọi việc xảy ra quá nhanh chóng và phũ phàng đến thế. Cô ấy nhớ lại chỉ với ít phút trước đây… Chiếc xe taxi chở cô ấy, Tâm, bác Hai mẹ của Tâm và cô Hoài đang từ từ lăn bánh. Khi còn cách nhà khoảng hơn một cây số, nhìn qua tấm kính chắn gió phía trước xe, bé Hằng trông thấy từ đằng xa một chiếc xe tải đang cố vượt qua một xe khác, có lẽ do không làm chủ được tốc độ nên nó lao thẳng về phía chiếc taxi. Bác tài xế taxi thấy vậy bèn điều khiển và đánh vòng chiếc xe để tránh nhưng không kịp nữa rồi. Chiếc xe tải đã đâm ngang và húc đổ làm chiếc taxi lăn lộn mấy vòng.

Từ bên kia nửa vòng trái đất, khi hay tin về tai nạn xảy ra đã cướp đi mạng sống của Tâm, đứa con rễ tương lai của An và cũng là đứa em rễ của Ngọc Hương, của Hùng. Ai nấy đều bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Mọi người tức tốc bay về Việt Nam để chia buồn cùng gia đình chị Hai, phụ giúp lo chuyện hậu sự, cũng như là tiễn đưa Tâm về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhìn bé Hằng bơ phờ ngồi cạnh bên quan tài của Tâm, không ai mà không cầm được nước mắt. Bước đến bên cạnh đứa con gái yêu quí của mình, An vỗ về:
- Thôi dù sao thì mọi chuyện cũng đã xảy ra rồi. Tuy nó để lại cho mọi người nỗi mất mát quá lớn, quá đau đớn và phũ phàng. Nhưng ba khuyên con hãy bình tĩnh và phó dâng mọi sự cho Chúa.
Bé Hằng mếu máo nhìn An:
- Ba ơi, sao con khổ quá?! Chắc con không sống nỗi ba ơi…
Xoa đầu bé Hằng, An nói tiếp:
- Ba biết con rất đau khổ, Hằng ạ. Lúc này ba cũng chẳng biết phải nói gì với con, ba chỉ khuyên con là hãy cố gắng vượt qua tất cả. Ba nghĩ rằng ở trên cao kia, Tâm đang mỉm cười… vì dù sao trước khi chết, Tâm cũng đã giúp đỡ được rất nhiều người, và mang đến cho họ nhiều niềm vui; trong đó có con. Hằng ạ, sống chết là điều mà ai ai đã sinh ra trong cõi đời này đều phải mang lấy, phải trải qua. Vẫn biết là nó làm cho ta đau đớn tưởng như đứt từng khúc ruột, khi phải chia ly mãi mãi với người thân yêu. Hằng - con yêu dấu của ba! Thánh Phanxicô thành Assisi đã nói: ‘Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời’. Vì thế, con hãy can đảm chấp nhận mọi sự Thiên Chúa đã an bài nhé.
Hùng đứng bên cạnh em gái mình, đôi mắt chàng đỏ hoe khi chứng kiến những sự việc đau lòng mà em gái mình phải gánh chịu.
- Hằng ơi, anh thương em nhiều lắm. Nay anh Tâm chẳng may vắn số không còn nữa, nhưng anh khuyên em bớt u buồn vì anh luôn luôn ở bên cạnh em, anh sẽ lo lắng và chăm sóc cho em.
Riêng Hoài cũng nước mắt ngắn dài:
- Bé Hằng ơi! Thôi con đừng khóc nữa, cô thương con nhiều lắm!
Những ngày tang tóc đã trôi qua, và Tâm giờ đã nằm nghỉ yên dưới đáy mộ. Nhưng khi nghĩ tới Tâm, nỗi nhớ thương khiến mọi người trở nên buồn bã và không còn thiết tha gì nữa. Vào một buổi chiều thứ sáu, buổi chiều mà Đức Kitô đã phải dang hai tay chịu đóng đinh vào Thập Giá trên đồi Can-vê. Người ta thấy có một nhóm người quì dưới chân tượng Đức Mẹ Núi Cúi, nhóm người đó là An, Hoài, chị Hai, Hùng và bé Hằng. Mọi người đến đây để cầu xin cùng Mẹ Maria và muốn nhờ Mẹ trao gởi lên Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót, tất cả những giọt nước mắt vui mừng và đau khổ trong cuộc đời của mỗi người, và cầu xin cho được đặt trọn tín thác hoàn toàn vào Chúa.
Sau khi từ Núi Cúi trở về, như có một phép mầu xảy đến cho bé Hằng… Mọi người thấy bé Hằng đã bớt buồn, bớt than trách; ngược lại trông cô ấy có vẻ vui hơn, yêu đời hơn. Tối ngày mọi người thường nghe cô ấy hát:
Xin cho con lòng mến thương để dù đời đắng cay trăm chiều, cho con yêu một Chúa thôi, để đời sẽ hết nỗi đìu hiu. Cho con mê say tình Ngài, để tình đời chẳng còn vương vấn. Dâng mạng sống con cho Ngài, luôn sẵn sàng minh chứng cho tình yêu.’ ( Ns. Hồng Trần- Phạm đình Đài)
Thời gian qua nhanh, chỉ còn ít ngày nữa là phải bay về Mỹ, mọi người nghe thấy bé Hằng nói:
- Trải qua hai cuộc tình, cuối cùng thì bé Hằng này vẫn trắng tay. Thôi chắc có lẽ phải ‘cặp bồ’ với anh Giêsu, thì mới bền vững được.
Mọi người cười ồ lên sau câu nói đùa của bé Hằng..
Trở về Mỹ, người ta thấy Hiệp Hội Lòng Chúa Thương Xót có thêm một thành viên mới, người ấy không ai khác chính là bé Hằng. Sau chuyến về Việt Nam đầy tang tóc vừa qua, bé Hằng bỗng dưng thay đổi hẳn cách sống. Cô ấy tham gia các việc từ thiện và dành nhiều thời gian để cầu nguyện hơn, tiền bạc kiếm được cô ấy thường xuyên gởi về giúp đỡ thêm cho chị Hai. Và sau cái chết của Tâm, bé Hằng đã chính thức nhận chị Hai làm mẹ của mình, vì cô ấy muốn thay mặt Tâm lo lắng và chăm sóc cho người mẹ bạc phước chẳng may sớm mất con. Hơn nữa theo bé Hằng, đó cũng là cách để cô ấy báo đáp lại món quà quí giá, mà người yêu tương lai đã vì cô phải bỏ ra rất nhiều công sức và dành hết thời gian để nghiên cứu. Ngoài ra bé Hằng cũng muốn nhờ mẹ Hai giúp đỡ cho những người già cả, những người nghèo khổ.
Công việc từ thiện và kế sinh nhai đã phần nào giúp bé Hằng quên đi những chuyện khác. Một hôm, nhân lúc rãnh rỗi, bé Hằng dọn dẹp lại tủ quần áo. Cô ấy nhìn thấy trong góc tủ có một cái chai lọ nhỏ, cô ấy không nhớ rõ là trong chai đựng thứ gì. Cầm lên xem, bé Hằng mới biết đó là lọ thuốc chữa lành vết sẹo sau phẫu thuật mà Tâm đã dày công nghiên cứu và tặng nàng. Hai tay ôm lấy cái chai và áp sát nó vào lồng ngực, nàng nghe thoang thoảng như có tiếng của Tâm: ‘…Cũng vì yêu em, nên anh đã nguyện với lòng mình rằng: anh sẽ làm cho ước muốn của em được thành sự thật…’Vậy mà từ ngày đó đến nay bé Hằng đã quên mất, và chưa đem ra xử dụng cho tròn ý nguyện của Tâm. Nhìn lên di ảnh của Tâm, bé Hằng nước mắt rưng rưng thì thầm:
- Anh Tâm ơi, thứ lỗi cho em nhé. Em thật vô tình và chóng lãng quên những ân tình của anh trao gởi. Thôi anh đừng buồn, em hứa sẽ làm theo những gì anh dặn dò. Cám ơn anh. Chúc anh yên nghỉ.

Sáng chủ nhật đẹp trời, Hùng chạy xe qua rủ em mình đi dự đại hội giới trẻ được tổ chức ở một giáo xứ nọ. Như mọi lần bé Hằng hay đưa ra nhiều lý do và tìm cách từ chối, nhưng hôm nay Hùng chưa kịp nói thì bé Hằng đã nhanh nhảu:
- Vậy mấy giờ thì Đức Thánh Cha gặp gỡ giới trẻ hở anh?
Hùng bĩu môi:
- Gớm! Sao mà hôm nay sốt sắng thế? Đã bao nhiêu lần năn nỉ cô muốn gãy cả lưỡi.
- Thôi cho em xin lỗi mà.
- Trang điểm nhanh lên, đến giờ rồi đó.
Bé Hằng bước lại ngồi ở bàn trang điểm. Bỗng Hùng nghe em mình reo lên:
- Ôi thật là kỳ lạ.
Trông thấy bé Hằng cầm gương đưa qua đưa lại, Hùng sốt ruột:
- Thôi cô ra mà đi xe buýt, muộn rồi. Tôi đi đây.
Bé Hằng thấy anh mình nói vậy vội đứng lên:
- Anh không mừng cho em à…mau lại đây mà xem.
Hùng bước tới gần:
- Đâu…xem cái gì?
Bé Hằng ngửa mặt lên rồi tiến đến sát Hùng:
- Mặt em…anh thấy mặt em thế nào?
Hùng giật mình và không hiểu có chuyện gì đã xảy ra cho bé Hằng, vì gương mặt của bé Hằng hôm nay trông rất đẹp, vết sẹo vá trên môi đã biến mất mà không để lại một dấu vết nào nữa cả. Hùng quan sát rất kỹ làm bé Hằng ngại ngùng:
- Thôi nhìn gì mà kỹ vậy…vừa vừa thôi chớ?
- Hôm nay cô hơi lắm chuyện ấy nhé, gọi người ta ngắm xong rồi lại mắng. Người đâu mà người…
- Anh có nhận ra điều gì khác ở trên mặt em không?
- Anh cũng thấy lạ là cô vịt con xấu xí mọi ngày nay bỗng hóa thành thiên nga.
Hằng khoái chí với lời khen của Hùng:
- Thiệt hông? Đi thi hoa hậu được rồi chứ gì?
Tuy nói chuyện với bé Hằng, nhưng Hùng vẫn thắc mắc và không hiểu lý do vì sao mà hôm nay mặt bé Hằng trông rất khác lạ so với trước kia:
- Anh hỏi thiệt nghe, em mới đi thẩm mỹ viện về phải không?
- Tiền đâu mà đi thẩm mỹ anh ơi. Đây là do em bôi loại thuốc mà anh Tâm đã cất công nghiên cứu và trước khi chết đã trối lại cho em.
Mắt Hùng sáng lên:
- Ủa thật thế sao? Tội nghiệp cho người có thiên tài lại sớm bạc mệnh. Giá mà anh ấy còn sống…
Nói về bé Hằng, sau khi đã trải qua hai cuộc tình mà kết quả không đi tới đâu cả, cô ấy đâm ra chán nản và không muốn nghĩ tới chuyện làm bạn với ai nữa, mặc dù có rất nhiều chàng trai tìm gặp và ngỏ ý làm quen. An, chị Hai và Hoài thấy hoàn cảnh của bé Hằng rất đáng thương, bàn bạc góp ý và mong muốn bé Hằng có một chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời, thế nhưng cô ấy chỉ cười và lắc đầu.

Một ngày nọ bé Hằng nói dối bố An là đi du lịch, nhưng thật ra cô ấy trốn mọi người và mua vé bay về Việt Nam. Trong chuyến về thăm lại cô nhi viện lần này, bé Hằng mang về rất nhiều loại thuốc xóa tan vết sẹo do Tâm nghiên cứu và đã được các công ty dược mua bản quyền chế tạo.
Nói về bản quyền sáng chế ra loại thuốc xóa tan nhanh những vết sẹo trên cơ thể người. Vì Tâm chẳng may bạc mệnh, và do xét theo góc độ người được thừa hưởng kế tiếp, thì người đó phải có quan hệ mật thiết với Tâm. Sau một thời gian cân nhắc kỹ lưỡng, tòa án đã quyết định cho chị Hai là mẹ ruột của Tâm được thừa kế công trình này. Và qua lời trình bày của chị Hai về việc chị ấy muốn nhường lại cho bé Hằng, là người vợ sắp cưới của Tâm một phần trong đó. Vì thế tòa án cũng đã chấp thuận theo như đề nghị này.
Ra khỏi tòa, chị Hai và bé Hằng ngồi nghỉ chân ở chiếc ghế đá đặt cạnh gốc cây sao ven đường. Đưa mắt nhìn bé Hằng, chị Hai nói:
- Thôi con đừng lo buồn nữa, ai cũng có số có phần. Cho dẫu hai con chưa được một ngày sống bên nhau, nhưng trái tim của hai con đã thuộc về nhau rồi. Vì vậy bác muốn xem con như là con của mình, con có bằng lòng không?
Nghe chị Hai nói vậy, bé Hằng rưng rưng nước mắt ôm chầm lấy chị Hai:
- Đó là điều con ước ao lâu rồi, xin hãy cho con được gọi lại tiếng mẹ thân thương, mà đã bao năm qua thiếu vắng trên môi miệng của con.
Bé Hằng nói xong, chị Hai rơm rớm nước mắt, đoạn chị ấy giơ hai tay ôm bé Hằng vào lòng:
- Con của mẹ.
Bé Hằng cũng nức nở:
- Ôi…Mẹ yêu dấu của con.
Phần bé Hằng, do được thừa hưởng chút huê lợi từ bản quyền của Tâm, nên cũng có thêm được chút ít vốn liếng làm kế sinh nhai, ngoài ra cô ấy cũng trích bớt một phần để làm việc bác ái từ thiện…

- Con chào Dì.
Nghe có tiếng người nói, Dì Hiền quay lại và nhìn người vừa chào rất lâu. Dì vẫn như chưa nhận ra bé Hằng:
- Chào cô, chẳng hay cô đến đây có việc gì?
Bé Hằng nghe Dì Hiền nói vậy thì cười khanh khách:
- Dì không nhận ra con sao?
Dì Hiền quan sát bé Hằng với vẻ hồ nghi:
- Xin lỗi cô…con bé Hằng môi nó bị…
Bé Hằng vội nói chen vào:
- Con bé Hằng bị sứt môi, chính là con đây nè.
Lúc này Dì Hiền mới cười và nắm lấy tay bé Hằng:
- Độ này trông con đẹp lắm, Dì nhận không ra là phải rồi. Thế con có cách nào để làm cho những vết khâu ấy biến mất?
Nghe Dì Hiền hỏi, bé Hằng lòng dạ bồi hồi nhớ về Tâm. Cô ấy  nghẹn lời không nói được và đưa khăn lau nước mắt. Dì Hiền không hiểu đã có chuyện gì xảy ra:
- Sao con lại khóc? Có chuyện gì kể cho Dì nghe với.
Bé Hằng bắt đầu kể cho Dì Hiền nghe toàn bộ câu chuyện về cuộc đời của nàng từ lúc quen Hùng, quen Tâm, về cái chết đau đớn của Tâm và về loại thuốc mà vì yêu nàng, Tâm đã mày mò sáng chế, và khi niềm vui vì sự thành công chưa được trọn vẹn thì chàng đã phải vĩnh viễn ra đi sau tai nạn xe.
Kể tới đây thì bé Hằng ngồi khóc. Dì Hiền thấy vậy giơ tay ôm lấy và an ủi:
- Thật là tội nghiệp, cuộc đời con gặp toàn những chuyện đau lòng. Thôi vì cuộc khổ nạn của Chúa, con cũng hãy dâng hết cho Ngài những đau khổ đắng cay của cuộc đời con nhé. Dì hy vọng rằng con sẽ đủ nghị lực để vượt qua tất cả. Ai cũng vậy, ‘qua cơn bĩ cực sẽ đến hồi thái lai’ mà con. Vậy lúc này con đã có dự định gì chưa?
- Nói thật với Dì, giờ thì con chằng thiết tha gì nữa cả. Thôi cứ để cho thời gian định liệu. À hôm nay về thăm Dì, con có mang theo một ít thuốc, Dì coi xem có em nào bị sẹo do khâu vá môi hoặc do các thương tật khác, Dì lấy thuốc này bôi cho các em nhé, thuốc hay lắm, con chỉ mới làm vài lần đã thấy những vết sẹo trên môi biến mất.
Dì Hiền cảm động:
- Thay mặt các em, Dì cám ơn con nhiều. Riêng đối với anh Tâm, thật là một gương hy sinh hiếm có, giờ biết làm gì để cám ơn anh ấy. Thôi thì chúng ta cầu nguyện xin Chúa cất bớt hình phạt, do những lỗi lầm anh ấy mắc phải khi còn sống ở đời này, và ban thưởng phúc trường sinh cho anh ấy nhé.
- Dạ. Con cám ơn Dì.

Và thật là không còn niềm vui nào bằng, khi Hoài và các con được đoàn tụ với nhau, vậy là từ đây mẹ con không phải nghìn trùng xa cách nữa. Riêng bé Hằng vẫn canh cánh nỗi lòng vì thủ tục bảo lãnh cho mẹ nuôi là chị Hai gặp nhiều khó khăn, cô ấy chạy vạy khắp nơi nhờ vả nhưng vẫn chưa được.
Một chiều thứ bảy nghỉ việc, bé Hằng quyết định tìm tới nhà nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, với hy vọng Ơn Trên soi sáng giúp đỡ sẽ tìm được lối thoát cho công việc này. Những lời kinh khi trước lúc còn ở trong cô nhi viện, các Dì đã dạy cho bé Hằng và các bạn nhỏ như vẫn còn văng vẳng bên tai Hằng:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh MARIA là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời. Nhân vì sự ấy…”
Ngước mắt nhìn lên tượng Mẹ, bé Hằng thì thầm nguyện xin:
Mẹ ơi, chắc hẳn Mẹ còn nhớ ngày Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, khi công việc đã hoàn tất và trên đường trở về, Mẹ và Cha Thánh đã phát hiện Chúa Giêsu bị thất lạc. Sau một thời gian vất vả ngược xuôi để tìm kiếm, và cuối cùng nỗi vui sướng ngập tràn tâm hồn Mẹ và Cha Thánh khi đã gặp thấy và được sum họp cùng với Chúa.
 Người mẹ ruột của con tuy đã chết, nhưng con cám ơn trời đã cho con chút may mắn là được người mẹ này nhận làm con, và nay con xin Mẹ cùng Cha Thánh giúp con được đoàn tụ với mẹ nuôi của con.
Tình cờ một ngày nọ khi bé Hằng tới công ty dược, nơi đã mua bản quyền chế tạo thuốc do Tâm sáng chế. Bé Hằng muốn đến để xin nhượng lại ít thuốc về cho các em ở cô nhi viện. Trong lúc đang làm việc với quản lý của công ty, bé Hằng nghe cô quản lý nói đang cần người giúp việc. Thời cơ đã đến, bé Hằng bèn ngỏ lời với họ. Khi đã biết rõ chị Hai là mẹ của Tâm, hơn nữa Tâm còn là ân nhân của công ty, nên việc bé Hằng đề bạt đã nhanh chóng được lãnh đạo công ty nhận lời. Và thế là chỉ vài tháng sau đó chị Hai cũng được sang đoàn tụ với bé Hằng và được gặp gỡ lại mọi người.
Sau một ngày lao động miệt mài, trở về nhà bé Hằng rủ chị Hai đi lên Đền Thánh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, để tạ ơn Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, đã ban cho hai mẹ con sớm được sum họp bên nhau.
- Mẹ à, con cũng muốn nhân tiện đây mình xin lễ cầu nguyện cho anh Tâm nghe mẹ nhé.
Thấy bé Hằng vẫn một lòng một dạ chung thủy với con mình, chị Hai cảm động:
- Đúng đấy, mẹ cũng đang tính nói với con. Thật tội nghiệp! Hai đứa chưa có được một ngày hạnh phúc bên nhau.
- Thôi mẹ đừng nhắc làm gì nữa, con chỉ biết xin cho được vâng theo Thánh Ý Chúa. Mai mốt đây rồi sẽ tới lúc con và mẹ cũng phải ra đi, và khi ấy chúng ta sẽ được nhìn thấy nhau và cùng vui thỏa trong lòng Chúa Xót Thương, phải không mẹ?
Ngồi nghỉ chân nơi bồn hoa của Đền Thánh. Mắt bé Hằng nhìn về cõi xa xăm:
- Con có việc này đang muốn hỏi mẹ.
- Có việc gì con cứ nói, mẹ nghe đây.
Bé Hằng nói chậm rãi như sợ chị Hai không nghe kịp:
- Mẹ ạ, con thấy để anh Tâm nằm lại bên đó một mình buồn lắm, tối ngày không có ai viếng thăm và nhang khói, thật là lạnh lẽo. Nếu mẹ đồng ý thì thời gian sắp tới, hai mẹ con mình cùng về và đưa hài cốt anh ấy qua đây, được không hở mẹ?
 Chị Hai cảm động đến rơi nước mắt khi nghe bé Hằng đề nghị. Phần xót thương con, phần thì tội nghiệp cho bé Hằng, sớm phải chịu cảnh đơn côi. Chị quay sang nó:
- Mẹ cám ơn con thật nhiều, việc này mẹ cũng có nghĩ tới, nhưng lực bất tòng tâm. Vì mẹ mới vừa qua đây, như con biết đấy… làm sao mẹ có đủ khả năng để làm việc này.
- Mẹ không phải lo chuyện tiền bạc, điều làm con lo sợ nhất đó là chỉ sợ mẹ không bằng lòng với dự định của con.
Đặt tay lên vai bé Hằng, Chị Hai nói:
- Hằng ơi, mẹ cám ơn con rất nhiều. Mẹ thật có phúc vì gặp được một đứa con quá hiếu thảo và tốt lành.
Chị Hai vừa nói xong, bé Hằng ôm chặt lấy chị:
- Con cũng cám ơn mẹ vì đã cho con được toại nguyện. Thôi mẹ để con lau nước mắt cho, kẻo người ta cười bảo là lớn tuổi rồi mà còn khóc nhè.

Sau khi An và Hoài vượt qua rất nhiều trở ngại và biến cố trong hôn nhân. Cuối cùng thì hai người lại được quây quần và sống hạnh phúc bên nhau. Vẫn biết rằng gương kia đã vỡ, dù có hàn gắn thế nào cũng không sao xóa hết vết hằn, và cả hai phải cố quên đi để chung sống lại với nhau. Biết rõ những sai trái lúc trước của mình, An ra sức làm tất cả những gì có thể được, để mong chuộc lại những lỗi lầm mà chàng đã gây ra cho Hoài và các con.
- Hoài ạ, sao cứ nghĩ tới những gì khi trước, lòng anh nó cứ nao nao làm sao ấy?
- Anh nao nao là phải, vì tội của anh lớn lắm. Nhưng thôi, giờ thì mình cũng không nên nhắc lại làm chi nữa. Anh có lỗi, nhưng em và các con đã tha thứ cho anh hết rồi. Em nghĩ rằng từ trên cao ấy, Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho những người con hoang đàng biết quay trở về.
An vẫn bức xúc:
- Nhưng mà anh muốn tìm một cách nào đó để bù lại…
Hoài cắt lời An:
- Không gì có thể bù đắp lại được, chỉ có tình thương của em và các con là bù đắp được cho người chồng bạc bẽo và người cha vô lương như anh. Và giờ đây anh cũng vậy, anh phải đáp trả lại cho vợ và các con của anh bằng cả trái tim, như trái tim của Chúa Giêsu đã chịu đâm thâu và đổ cho đến hết giọt nước và máu cuối cùng vì yêu thương nhân thế. Anh thấy các con của mình hiện nay thế nào? Chúng nó đã sống mấy chục năm trời mà không cần đến bàn tay của cha nó, nhưng phải nói là Tạ ơn Thiên Chúa vì đã an bài và giữ gìn, để đến hôm nay như anh thấy đấy: Ngọc Hương dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì, thằng Hùng tuy bị tàn tật, nhưng cũng chỉ nghĩ đến những người nghèo khổ hơn nó. Cách riêng bé Hằng, thật là tội nghiệp cho nó, tuy đường tình của nó lận đận và không được như lòng nó mong ước. Nhưng bây giờ nó cũng gia nhập hiệp hội Lòng Chúa Xót Thương, và tối ngày chỉ lo đi làm việc bác ái…Anh thấy không? Chúa đã giật chúng nó ra khỏi con người của anh và làm cho chúng trở thành những công cụ hữu ích của Ngài trên đời này. Em nói thật, anh không cần cám ơn em và các con đã cho anh được trở về. Nhưng anh hãy cúi đầu ăn năn và tạ ơn Thiên Chúa đã tha thứ và cho anh còn có cơ hội để được làm con của Ngài. Anh hiểu những gì em nói không? Không ai có quyền trách móc anh cả, ngoài Thiên Chúa.
- Anh hiểu những gì em nói rồi, cám ơn em.

Bỗng một ngày kia, sau khi vừa trở về nhà và đang chuẩn bị giờ cơm tối. Hùng thấy bố An đang nằm nghỉ trên giường. Hùng bước tới định lay gọi bố dậy ăn cơm thì thấy đôi mắt của bố có vẻ lờ mờ, hơi thở thì dồn dập và chân tay như bị sưng phù. Hoài thấy vậy cũng vội khập khiễng đến cạnh bên chồng, nàng cất tiếng gọi một lúc An mới mở mắt ra nhìn, trông chàng yếu ớt mệt lả và không mấy tỉnh táo. Hoài vội nói với Hùng gọi xe cấp cứu đưa An tới bệnh viện. Sau khi làm các xét nghiệm, bác sỹ cho Hoài và Hùng biết là An bị suy thận, ngoài ra họ còn cho biết là nếu gia đình có điều kiện thì nên thay thận, sợ để lâu sẽ nguy hiểm tới tính mạng.
Nằm trên giường bệnh, An nghĩ tới những người bạn trong đường dây buôn bán nội tạng khi trước, và cho mọi người trong gia đình biết là nếu thay thận ở Việt Nam sẽ mất ít kinh phí hơn là ở Mỹ. Sau khi bàn bạc và lấy ý kiến chung, mọi người quyết định sẽ đưa An về Việt Nam. Về tới Việt Nam, việc đầu tiên là Hùng dẫn mẹ đi liên hệ để tìm xem nơi chữa trị thận uy tín.
Nghe nói bên ngoài thị trường ngầm có mua bán thận người, Hùng bèn mở máy vi tính ra dò tìm. Bỗng Hoài thấy con mình reo lên và gương mặt nó lộ vẻ vui mừng hết sức:
- Mẹ ơi, mẹ yên lặng con đọc cho mẹ nghe: "Cần tiền đóng học phí, muốn bán một quả thận máu O, với giá rẻ bất ngờ chỉ 2.000 USD, ai có nhu cầu nhanh chân kẻo không còn"...
Hùng ngưng đọc và quay sang nói với Hoài:
- Những thông tin này được đăng tải trên một trang web có khá đông người truy cập đó mẹ. Sau khi thỏa thuận, cả người bán và người mua cùng ra nước ngoài để ghép thận.
Đợi con mình nói xong, Hoài bảo Hùng:
- Con lấy số điện thoại của người bán, mẹ con mình sẽ liên hệ sau.
Hùng đọc to số điện thoại cho mẹ nghe, Hoài lấy giấy bút ra ghi chép cẩn thận. An vừa nghe thằng Hùng đọc xong số điện thoại thì cố gắng ngồi dậy, chàng nói với nó:
- Con đọc lại cho bố nghe lần nữa xem có đúng không?
Hoài và thằng Hùng không rõ An nói thế có ý nghĩa gì. Nó nhìn bố và đọc: 0123456789. Hùng vừa dứt câu, An vỗ tay đánh đẹt một cái:
- Đúng rồi số điện thoại này là của thằng Chánh đầu đinh, nhưng sao thấy ở trên mạng người rao bán thận lại là một cậu sinh viên?
Qua tìm hiểu, An biết rằng hầu hết người có ý định bán thận đều không trực tiếp rao bán mà phải thông qua "cò". Nổi tiếng và có nhiều mối bán thận hiện nay là Chánh "đầu đinh", Trước đây Chánh "đầu đinh" là ‘vệ tinh’ chuyên đi tìm nguồn máu hiếm cho các bệnh viện. Thời gian gần đây, thấy nhiều người có nhu cầu ghép thận, Chánh kiêm luôn làm "cò thận". Chánh thường lân la đến các khu nhà trọ công nhân, sinh viên giới thiệu dịch vụ của mình. Mỗi lần thành công, Chánh ‘ăn’ 20% giá bán. Hàng ngày, Chánh có mặt ở hai bệnh viện Chợ Rẫy và 115, tìm gặp những bệnh nhân chạy thận nhân tạo và gạ gẫm họ mua thận để ghép hầu kéo dài sự sống.
Nghe chồng nói, Hoài liền hỏi:
- Anh vừa nhắc tới tên Chánh đầu đinh, người này là ai vậy? Và làm sao mà anh biết được người này?
Nhắc lại chuyện cũ thực ra An chẳng muốn tí nào…Nhưng vì Hoài đã hỏi, nếu mà không nói ra; có thể nàng sẽ cho rằng mình vẫn chưa thật lòng. Thôi thì dù sao bây giờ hai vợ chồng cũng đã làm lành với nhau, và mình cũng không còn tiếp xúc với hạng người độc ác chuyên buôn gian bán lận nữa…
- Em hỏi thì anh mới nói, thằng Chánh đầu đinh này khi trước đồng hội đồng thuyền với anh trong việc mua bán nội tạng người. Sau khi bỏ rơi em và cô Lý, anh la cà nhậu nhẹt và làm quen với tên này. Nói về tên Chánh đầu đinh thì hắn chẳng đoái hoài gì tới chuyện vợ con. Thích cô nào thì tìm cách gạ gẫm, và sau khi đã no xôi chán chè thì lừa bán lại cô ấy cho người khác, và không ít bố mẹ phải đổ hết nước mắt, khi biết con mình đã bị mổ xẻ cơ thể và lấy hết nội tạng. Hắn không cần một thứ gì khác ngoài tiền, đối với hắn tiền là trên hết.
Nghe chồng nói Hoài rùng mình:
- Biết hắn gian ác như vậy, anh còn quen với hắn làm gì?
An nhìn Hoài:
- Để anh nói tiếp… Khi hai người đã trở nên thân thiết, hắn bèn rủ anh đi bắt cóc người và bán họ cho những kẻ chuyên mua bán nội tạng. Sau khi mãn hạn tù như em biết đấy, anh đã bỏ nghề này và trở về xin vào làm ở xưởng mộc. Và anh cắt đứt liên lạc với hắn kể từ ngày ấy. Anh tưởng rằng nó đã nghỉ công việc này lâu rồi chứ, ai dè nó vẫn theo đuổi cái nghề gian ác này.
- Vậy anh có tính mua lại quả thận mà hắn vừa rao bán ở trên không?
Nghe Hoài hỏi, An suy nghĩ là không mua của hắn thì biết tìm mua ở đâu bây giờ, vì việc mua bán nội tạng người bây giờ là trái với pháp luật, và chỉ được phép cấy ghép khi người trong gia đình hiến tặng cho nhau, hoặc một ai đó biết rằng mình đã cận kề cái chết, sẵn sàng hiến tặng các nội tạng của mình, với ý muốn kéo dài sự sống cho đồng loại qua nghĩa cử cao đẹp này. Với căn bệnh của An thì việc chần chừ đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết đến từ từ, do đó khó để mà An từ chối:
- Mua thì trước sau gì cũng phải mua, nhưng cứ để cho hắn tới đây đã, mọi việc đúng sai thế nào sẽ hạ hồi phân giải.

Sau khi Hùng gọi điện thoại liên lạc với cậu sinh viên, chỉ cần không đầy nửa tiếng, hai người đàn ông một trẻ một già đã đến địa điểm mà gia đình đã thống nhất. Để tránh khỏi rơi vào những tình huống khó xử nếu gặp lại người quen, An lấy khẩu trang che kín hai phần ba khuôn mặt của mình lại. Từ đàng xa, An đã nhận ra tên Chánh đầu đinh. Hắn vừa đi vừa nhìn trước ngó sau, thái độ rất cảnh giác. Hùng tiến lại gần và mời hắn ngồi xuống cái ghế đá, được đặt nơi dãy hành lang ít người qua lại. Trông thấy An che kín gần hết khuôn mặt, tên Chánh yêu cầu An dỡ bỏ chiếc khăn ra, bấy nhiêu đó cũng đủ để thấy rằng tên này rất cảnh giác và lo sợ, luôn luôn chú ý đề phòng mọi sự theo dõi của cảnh sát.
- Nếu được, tôi xin anh bỏ cái khẩu trang ra, chúng ta sẽ nói chuyện này với nhau.
- À… Xin thông cảm, tôi bị bệnh truyền nhiễm.
Nghe An nói vậy, tên Chánh đầu đinh do dự:
- Nếu anh không làm theo lời yêu cầu của tôi, việc mua bán coi như chấm dứt ở đây.
Phải nói hắn rất ranh mãnh và quỉ quái, An chưa biết phải xử trí như thế nào, thì hắn đứng lên và nói:
- Xin lỗi ông bạn, thời giờ của tôi có hạn. Thôi…
Hắn chưa kịp dứt lời thì An đã kéo ngay cái khẩu trang xuống. Hắn trố mắt nhìn An, miệng lắp bắp:
- An. Có phải là mày không hả An?
Biết không thể che giấu được mãi, An lên tiếng:
- Đúng, tao là An đây. Tao cứ ngỡ là mày đã chuyển sang làm việc khác kể từ sau cái ngày bị bắt.
Tên Chánh đầu đinh cười khẩy:
- Không vợ không con như tao, sống được ngày nào hay ngày ấy, lo chi đường dài. Thôi tao đang bận, hẹn mày lúc khác nói chuyện nhiều hơn. Ok?
Thấy hắn nói vậy, An giả vờ lấy chỗ tình đồng nghiệp quen biết khi trước, kì kèo thêm bớt về giá cả. Sau khi đã thỏa thuận đâu đó xong xuôi, An lấy cớ tiền ở nhà băng chưa rút ra và hẹn hắn sẽ thanh toán sau. Sở dĩ An kéo dài thời gian như vậy là do An muốn tìm hiểu sự thật có đúng là cậu sinh viên này cần tiền hay bị bắt cóc tống tiền, vì nhìn dáng điệu của cậu sinh viên này, An nghĩ là còn có điều gì ẩn khuất đàng sau đó. Nói gì thì nói chứ việc này đối với An đâu còn xa lạ gì, chàng cũng đã từng ra tù vào khám nhiều lần rồi. Do đó chàng đã thừa hiểu mọi chuyện sau cái bắt tay của cậu sinh viên.
Tên Chánh đầu đinh và cậu sinh viên vừa quay mặt đi được vài bước, một mảnh giấy nhỏ rơi xuống trước mặt An, An vội cúi xuống và giơ tay định cầm lấy. Bất ngờ chàng thấy có chiếc giày của ai đó vừa giẫm lên mảnh giấy. Ngước mắt nhìn lên, An thấy tên Chánh đầu đinh đứng ngay trước mặt mình, lúc này trông vẻ mặt của hắn đằng đằng sát khí. Hắn nghiến răng ken két và chỉ vào mặt cậu sinh viên:
- Thằng nhóc con này, muốn chết hay sao mà dám chơi ông mày?
Hắn cúi xuống nhặt nhanh tờ giấy và kéo tay cậu sinh viên đi nhanh về phía cửa ra vào. Bên này Hoài đã để ý tới mọi hành tung của tên Chánh, nàng nghi ngờ có gì mờ ám trong đó và nàng muốn biết rõ sự thật. Trông thấy tên Chánh cố tình trốn đi, buộc lòng Hoài phải giả vờ kêu lớn:
- Bớ người ta, ăn cướp.
Vừa hét Hoài vừa lăn xe và chỉ tay về hướng mà tên Chánh đang đi.
Nghe tiếng tri hô của Hoài, các chú bảo vệ bệnh viện đã kịp thời bắt giữ tên Chánh lại. Hắn vùng vẫy cố thoát ra khỏi và miệng thì nói to:
- Các ông bắt lầm người rồi, mau thả tôi ra, tôi đi thăm người nhà đang nằm ở đây.
Mặc cho hắn la hét, các chú bảo vệ tìm gặp Hoài và An để nắm rõ sự tình. An nói nhỏ với các chú bảo vệ:
- Trên tay hắn đang cầm một mảnh giấy.
Các chú bảo vệ tiến lại, và dường như hắn đã đoán trước được điều gì sẽ xảy ra, nên lập tức hắn cho ngay mảnh giấy vào miệng và nhai. Nhưng dù tên Chánh có nhanh nhẹn cỡ nào, cũng không thể qua mặt được các chú bảo vệ với những bàn tay cứng như gọng kềm. Sau tất cả mọi nỗ lực, cuối cùng mảnh giấy cũng đã được lấy ra khỏi miệng hắn. Trên mảnh giấy, những giòng chữ của cậu sinh viên nọ, đã lại một lần nữa tố cáo tội ác của tên Chánh và đồng bọn trong việc bắt cóc và buôn bán nội tạng người:
“ Nếu nhặt được mảnh giấy này, con xin mọi người hãy cứu con với. Con xin cám ơn. Con bị bọn này bắt và bị ép buộc phải bán quả thận rồi đưa tiền cho chúng, nếu con không nghe hoặc tố giác, bọn chúng sẽ giết con”.
Và sau đó thì tên Chánh đã được chuyển giao cho cảnh sát. Bước ngang qua mặt An, hắn bặm môi trợn mắt như muốn ăn tươi nuốt sống An. Cuối cùng thì tên Chánh đầu đinh phải ngồi tù và chấp hành án phạt cho những việc làm gian ác của mình.
Về phần An, sau khi đã được nhiều người tin cẩn giới thiệu cũng đã mua được quả thận của một người đàn ông, vì hoàn cảnh quá nghèo, lại cần tiền chạy chữa thuốc men cho vợ, nên buộc lòng ông ấy phải bán bớt một quả thận.

Một ngày nọ…
- Các chú cảnh sát ơi, cho phép tôi được gặp một người tù tên là Chánh, thường hay gọi là Chánh đầu đinh.
Viên cảnh sát nhìn An vẻ nghi ngờ, dò xét:
- Anh là gì với người tù này?
- Dạ, tôi và anh ta là bạn quen biết thuở trước, nghe tin anh ấy bị tù tội tôi muốn ghé thăm.
- Vậy thì xin mời anh theo tôi.
Vừa trông thấy An, tên Chánh đầu đinh mặt hầm hầm:
- Mày còn vào đây làm gì nữa? Tao không có những người bạn như mày.
An trả lời hắn:
- Tao đến thăm mày là vì tao còn nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ.
Tên Chánh gắt gỏng:
- Nếu còn nghĩ tới tình xưa, tại sao mày lại báo với cảnh sát về việc làm của tao?
An từ tốn:
- Ngoài việc đến thăm mày, tao còn có ý là muốn giúp cho mày, tao muốn mày từ bỏ con đường làm ăn phi pháp mất hết tính người này đi.
- Gớm hôm nay còn bày đặt nhân nghĩa.
- Không…Tao nói thật đấy, tao đang cần những người như mày hợp tác đóng vài bộ phim. Nếu mày chịu, tao sẽ bảo lãnh cho mày tại ngoại.
Nghe An nói, Chánh đầu đinh ngồi suy nghĩ. Một lúc sau hắn lên tiếng:
- Làm cái gì đó có nhiều tiền không?
An cười:
- Tao sẽ trả cho mày sòng phẳng.
Nhờ sự bảo lãnh của An, Chánh đầu đinh đã được tại ngoại và An cũng không còn phải bận tâm nhiều về việc làm khi trước của Chánh nữa. An muốn Chánh tham gia làm việc với mình, và chàng cũng muốn với thời gian ở cạnh bên, sẽ tìm cách cảm hóa Chánh quay trở về nẻo chính đường ngay.
Những ngày sau đó, An bố trí cho Chánh vào vai một Thầy dòng, nghe xong hắn cười to và bảo rằng:
- Mày tưởng cảm hóa một tên tướng cướp trở thành Thầy tu dễ lắm hay sao? Tao nghĩ vai này không hợp với tao lắm.
- Không có gì là không làm được, miễn sao mày chịu khó nghe tao là được rồi.
Bộ phim “ Nếu không lấy được em, anh sẽ đi tu” dự định sẽ kéo dài trong sáu tháng. Và để nhập vai thật hoàn hảo bắt buộc Chánh đầu đinh phải sống tuân thủ theo kỷ cương của nhà dòng, phải thay đổi cái lối nói chuyện hàm hồ ngày xưa, phải ăn chay kiêng thịt, rượu…Lúc đầu Chánh cũng muốn bỏ cuộc, nhưng thấy tiền thù lao mỗi tuần An trả cho quá dồi dào, thế là Chánh bỏ đi cái ý định ấy.
Cuối cùng thì bộ phim cũng đã hoàn thành và chiếu ra mắt khán giả, mọi người trầm trồ khen ngợi ông Thầy tu trong phim không ngớt lời…
Một hôm An cười bảo với Chánh:
- Không ngờ mình kiếm được ông Thầy tu dễ thương thật, các cô xem phim xong cứ đòi gặp mặt ông Thầy tu này nhưng mình không chịu. Cậu biết không? Các bà và các cô chê bai nhân vật nữ trong phim quá khờ dại, đã để đánh mất người tình tuyệt vời, đến nỗi cậu ta phải nương mình sau bốn bức tường của tu viện.
An và Chánh cùng ôm bụng cười, sau đó An nói tiếp:
- Cậu nhập vai quá xuất sắc, từ rày tên Chánh đầu đinh đã biến mất khỏi đời này, và thay vào đó là Chánh Thầy tu, phải không?
Chánh đầu đinh lườm lườm An:
- Không dám đâu. Cậu đưa tớ vào vai này làm cho tớ bây giờ đang phân vân đứng giữa ngã ba đường, và không biết mình đang sống thật hay giả nữa. Nhưng có điều mình phải cám ơn cậu là tính cách của ông Thầy tu trong phim, đã khiến cho mình phải đặt ra nhiều vấn đề cho cuộc sống, nghĩa là nếu từ trước đến nay mà tớ thể hiện được những gì giống như ông Thầy tu, thì đâu còn phải lo bị cảnh sát hay chính quyền sờ gáy, tù tội. Nhưng chuyện gì cũng phải từ từ, đâu phải một sớm một chiều là được đâu. Nghĩ lại những gì đã xảy ra trong quá khứ, đôi lúc tớ nghĩ rằng sẽ không ai tha thứ cho tớ, và tớ cũng không biết làm thế nào để chuộc lại tội ác mà tớ đã gây ra.
- Tạ ơn Chúa và Mẹ đã cho cậu biết dừng lại, biết quay đầu là bờ. Mình nghĩ là không còn ai oán ghét cậu đâu.
Thật đúng như lời Thánh Kinh: “ Đối với Thiên Chúa, không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được.”(Lc 1,37). Bộ phim chẳng những đã ăn sâu vào trong tâm trí mọi người, mà ngược lại nó còn ảnh hưởng tới cuộc sống của Chánh rất nhiều. Người ta không còn thấy Chánh la cà nơi quán xá, lặn lội trong các bệnh viện để buôn bán nội tạng người nữa. Chánh đầu đinh đã thay đổi hoàn toàn và đã lột xác để trở thành người Thầy tu trong phim và trong đời thật.
Thời gian sau đó, cứ vào sáng sớm người ta thấy có một ông Thầy tu, tóc húi cua cầm chổi đứng quét những chiếc lá vàng rơi rụng ở sân tu viện. Chánh đầu đinh đã từ bỏ nếp sống cũ, đã thật sự hối lỗi và đã xin gia nhập vào một dòng tu nọ. Công đầu này phải kể đến là của An, chàng đã nhờ bộ phim để làm mới lại con người của Chánh, và qua Lòng Thương Xót mà Thiên Chúa đã thể hiện với nhân vật là một người tù tội lỗi trong bộ phim, đã làm cho Chánh có một cái nhìn bao dung với mọi người.

Tính từ ngày ghép thận đến nay, An đã sống khỏe mạnh được hơn mười lăm năm. Nhưng đời đâu ai biết được chữ ngờ, An đang hoạt động rất tốt cho lãnh vực điện ảnh, công việc khá trôi chảy nên suốt ngày cứ lao đầu vào, lắm khi bỏ cả ăn uống ngủ nghỉ. Hoài sợ chồng mình tham công tiếc việc quá sẽ bị xì-trét (Stress), nàng bèn nói với chồng:
- Em nghĩ Chúa đâu có để cho Hai vợ chồng mình đói đâu mà anh phải sợ vậy?
An phân trần:
- Không, anh biết chứ, nhưng nhiều khi anh sợ công việc không hoàn thành như hợp đồng đã ký kết, gây rắc rối và thiệt hai cho cả mình và người ta. Thôi được nếu em nói vậy thì mau mau vào thay đồ, chúng mình sẽ đi ăn tối ở nhà hàng kia, chịu không?
Bỗng một ngày nọ An nói với Hoài:
- Sao hôm nay anh cảm thấy trong người rất khó chịu, mệt mỏi lắm.
Nghe chồng nói, Hoài lại gần và thấy mặt chồng mình có biểu hiện bị sưng phù lên. Nàng lo lắng:
- Sao mặt anh lại sưng phù lên vậy, hay là căn bệnh thận của anh nó biến chuyển trở lại. Thôi được, để em gọi xe đưa anh vào bệnh viện nhé.
Đúng như dự đoán của Hoài, thời gian ghép thận cho An đã quá lâu rồi, vả lại có thể lúc này do tuổi tác của An đã ngày càng cao, nên khả năng hệ miễn dịch của chàng đã suy yếu, làm giảm sức chịu đựng, và do đó bệnh tật bắt đầu xâm lấn, hoành hành. Đó cũng là những lý do khiến không ít thiên tài của thế giới, những ngôi sao màn bạc, những nhà bác học lừng danh, đã phải kết thúc đời mình khi tuổi đời còn quá trẻ, khi đường danh vọng đang rộng mở thênh thang, và khi thiên hạ đang cần đến họ.
An ngày càng yếu đi trông thấy, mọi người hay tin nhà đạo diễn lỗi lạc ốm nặng cũng đã tìm đến thăm hỏi.
- Hoài ơi, anh muốn đến tu viện để cầu nguyện và luôn tiện ghé thăm Thầy Chánh vì cũng đã lâu rồi, em giúp anh được không?
- Ồ tưởng việc gì chứ việc này thì dễ thôi.
Thế là mọi người qua lại trên đường bỗng ngạc nhiên khi nhìn thấy có một chiếc xe lăn, và họ còn kinh ngạc hơn khi biết rõ người đang dun đẩy chiếc xe lại là một người tàn tật. Đúng thế, với cái chân giả ngày nào An ráp cho Hoài, Hoài đang khập khiễng đẩy chiếc xe đưa chồng mình đến với Lòng Thương Xót Chúa, và đến thăm người con hoang đàng mà Chúa đã hoán cải và biến đổi nên người thầy tu. Trông thấy vợ đi lại có vẻ khó khăn, An ngồi trên xe nhưng lòng không yên. Chàng bảo với Hoài:
- Hay là để anh xuống đi bộ với em cho vui, chứ để…
Hoài lườm chồng:
- Anh cứ ngồi yên đấy, em muốn trả công cho anh về cái chân giả và về những lần anh tập cho em bước đi trên cái chân giả này.
- Có gì đâu mà em kể lể, vợ chồng với nhau mà.

- Ôi! Lạy Chúa tôi. Ai đời người ‘chân thật’ lại đi bóc lột và bắt người ‘chân giả’ đẩy xe. Anh đã học được cái kiểu này ở đâu vậy?
Vừa bước chân vào tới cổng tu viện, An và Hoài đã nghe thấy tiếng của Thầy Chánh. Hai vợ chồng cùng cười vang sau câu đùa của Thầy. Cố gượng cười, An nhìn Thầy Chánh và nói:
- Kể cũng là may, ốm đau còn có vợ đẩy, chứ giờ mà Thầy Chánh ốm chỉ có ‘ma’ nó đẩy.
- Ấy ấy cậu đừng nói thế.
Bỗng mọi người nghe thấy tiếng rộn rã đàng sau, quay lại thì thấy có Sơ Ngọc Hương, Hùng và cả bé Hằng đang nhìn họ và cười. Thì ra cả ba cùng đến đây để cầu nguyện khi nghe tin bố An bị ốm. Lần đầu gặp Thầy Chánh, bé Hằng nhìn Thầy ấy chằm chằm. Thầy Chánh lấy làm lạ liền hỏi cô ấy:
- Thầy có gì lạ hay sao mà con nhìn Thầy kỹ thế?
Bé Hằng vẫn im lặng chưa trả lời Thầy.
 Và riêng Thầy Chánh, Thầy ấy cũng nhận ra con bé này có nét quen quen.
- Trông con có nét quen quen, dường như Thầy đã gặp con ở đâu đó rồi.
Lúc này bé Hằng vẫn chưa lên tiếng, đột nhiên cô ấy quay sang nhìn Hùng và nói:
- Anh Hùng thấy thế nào, chứ em thì em thấy Ông Thầy này giống người đã trói anh em mình trên chiếc xe, rồi ở đồn cảnh sát biên phòng, đúng không?
Tuy chuyện hai đứa bị bắt cóc đã xảy ra lâu lắm rồi, nhưng phải nói là bé Hằng có bộ nhớ rất tốt. Biết bé Hằng nhìn mình như thể dò xét, Thầy Chánh đã phần nào đoán biết được suy nghĩ của nó. Thầy chưa kịp nói thì đã nghe bố An lên tiếng:
- Hằng ạ, con ngạc nhiên là phải. Thầy Chánh đây với bố khi trước là đồng nghiệp với nhau, và có điều này nếu bố nói ra chắc là con sẽ kinh hãi lắm, nghĩa là Thầy Chánh và bố cùng tham gia đường dây bắt cóc người và buôn bán nội tạng, và cũng đã có lần bố và Thầy đã bắt luôn cả hai con, chắc con còn nhớ chứ?
 Bé Hằng lí nhí:
- Dạ con nhớ, nhưng sao ông…Thầy ấy lại ở đây?
An xoa đầu con, cười nói:
- Thầy ấy bị nhà dòng bắt cóc và bị nhốt ở đây. Thế con có tha thứ cho Thầy ấy không?
Bé Hằng cười:
- Dạ có, con sẽ tha cho Thầy ấy với điều kiện là con sẽ gọi Thầy ấy bằng cái tên ông Thầy bắt cóc, chịu không?
Bé Hằng nói xong, mọi người cùng cười ồ lên. Sơ Ngọc Hương dí vào trán Hằng:
- Chịu thua cái con bé này.
Đứng im nãy giờ, Thầy Chánh cũng bắt đầu lên tiếng:
- Con bé này nó nói rất đúng, Thầy bây giờ vẫn là thầy bắt cóc, nhưng thầy chỉ bắt mấy con cóc là cậu ông giời ở trong sân tu viện mà thôi.
Mọi người lại được trận cười no nê, vang rộn.

Căn bệnh suy thận của An ngày càng trầm trọng, mặc dù đã được các y bác sỹ chạy thận lọc máu và điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau. Nhưng cuối cùng kết quả vẫn không có dấu hiệu gì là tốt đẹp. Nằm trên giường bệnh, An suy nghĩ rằng nếu đây là Thánh Ý của Chúa thì xin cho con được bằng lòng vâng theo.
Sau đó An cảm thấy sức lực ngày càng giảm sút tồi tệ và khó lòng qua khỏi được, An xin được gặp Hoài và các con.
Bước cao bước thấp Hoài mở cửa phòng bệnh, nơi chồng mình đang nằm điều trị. Hoài tiến lại gần hơn nữa, nhìn thấy An lúc này héo hắt và gầy rạc, quá đau lòng không thể cầm được nước mắt. Hoài thốt lên:
- Anh ơi! Tại sao lại ra nông nỗi này?!
Biết vợ mình vừa tới và đang ở cạnh bên, An cố mở mắt ra và cầm lấy tay Hoài:
- Tội nghiệp em, anh chưa bù đắp lại những tổn thất đã gây ra cho em trong cuộc sống, anh đã làm cho em phải chịu quá nhiều đau khổ…Thế mà em vẫn yêu anh và chấp nhận cho anh được trở về bên em. Anh nghĩ rằng cả đời này anh cũng không bao giờ đền đáp lại được những ân tình mà em và các con đã dành cho anh, tội của anh quá lớn không trời đất nào có thể dung tha được. Anh chưa làm được gì cho em và các con, thì đã chuốc lấy phải căn bệnh hiểm nghèo này và làm cho mọi người thêm buồn phiền lo lắng. Chúa ơi! Nếu có thể được thì hãy cho con sống thêm một thời gian nữa, để con được hoàn thành tâm nguyện của con…
Nói tới đây thì An há mồm ra thở dốc, Hoài vội gọi các cô y tá đang ngồi trực. Cô y tá nọ bảo với Hoài:
- Anh ấy đang cần nghỉ ngơi, chị đừng để cho anh ấy nói nhiều.
Nhưng cô y tá vừa quay lưng đi thì An vời Hoài lại gần và nói tiếp:
- Nay với tình hình đau bệnh thế này… Chắc là anh lại phải xa em… Anh phải xa em và các con mãi mãi. Hoài ơi… Em tha lỗi cho anh nghe.
Nước mắt ràn rụa, Hoài khóc nấc trong bàn tay gân guốc và nhăn nheo của chồng:
- Sao anh vội nói tới câu biệt ly… Xa vắng anh đã lâu rồi, nay em mới vừa tìm lại cho mình một bờ vai để nương tựa, thế mà…Không anh phải sống. Thôi anh đừng nói nữa, anh nằm nghỉ đi.
An cố nuốt nghẹn vào lòng:
- Vẫn biết đã là con người thì phải chấp nhận nhiều đau đớn khổ cực, nhưng không có nỗi đau nào lớn hơn và bằng khi phải chịu cảnh sinh ly tử biệt.
- Không… Anh không được đi đâu hết… Anh phải ở lại đây với em và các con.
- Hoài ơi… Anh nào đâu muốn xa em… Anh không muốn.
Quì gối khóc rưng rức bên giường của bố, và đang chờ đón những giây phút cuối cùng, khi bố nhắm mắt xuôi tay vĩnh biệt mọi người. Mặc cho Sơ Ngọc Hương và Hùng khuyên bảo, bé Hằng vẫn ngồi khóc, cô ấy không để cho ai an ủi mình:
- Mẹ ơi, mẹ không thương con nên mẹ bỏ con đi rồi… Con vừa mới tìm được bố, người mà ngoài mẹ ra, là người con yêu thương nhất trên đời… Nay bố lại bỏ con mà đi. Trời ơi sao tôi khổ thân thế này?! Bố ơi… Bố không thương con bé Hằng này phải không?
Muốn mở mắt ra nhìn con, nhưng An không thể. Chàng khẽ giơ tay quờ quạng như thể tìm bé Hằng. Hùng thấy vậy bèn nắm tay bé Hằng và đặt vào trong tay bố. An biết là đã nắm được bàn tay con bé Hằng yêu dấu của mình. Hai giòng lệ ứa ra từ trong khóe mắt của An, Hùng lấy khăn thấm nhẹ cho bố. An kéo bé Hằng lại gần mình hơn và thều thào:
- Con gái yêu quí của bố… Bố thương con nhiều. Tìm lại được con, bố rất vui mừng và bố đã cố gắng lo lắng cho con… Nhưng nay thì bố đã… Bố đã biết mình không còn sống được bao lâu nữa… Bố sẽ gởi con lại cho mẹ Hoài, con chịu không?
Chị Hai bán nước cũng nghẹn ngào bước lại gần và ôm chầm lấy bé Hằng:
- Con ngoan của mẹ, con đừng khóc nữa, mẹ sẽ cùng mẹ Hoài  yêu thương và lo lắng cho con đến hết cuộc đời mà.
Thầy Chánh hay tin cũng đến thăm hỏi An. Nắm tay người bạn một thời vẫy vùng tội lỗi và một thời yêu thương. Thầy ghé sát vào tai An nói nhỏ:
- Mình cám ơn cậu nhiều, cám ơn cậu vì đã giúp mình tìm thấy lại ánh bình minh tươi hồng rực rỡ, sau những đêm dài ngụp lặn trong đen tối nhuốc nhơ… Bên Chúa, mình sẽ cầu nguyện cho nhau, cậu nhé. Cậu hãy vui lên vì mình thấy mọi người trong gia đình cậu thật có phúc, vì đã biết sống yêu thương và tha thứ cho nhau, đó như là một dấu chỉ của lòng Thương Xót Chúa ban cho gia đình cậu, mà mình và mọi người, cũng như các gia đình phải noi theo.
Nói tới đây, chợt Thầy Chánh thấy bàn tay của người bạn hiền buông lơi khỏi tay mình. An như trút hết tàn hơi:
- Em…Các con…Ở lại, vĩnh biệt…Chánh… Đầu đinh.

Tiếng chuông trầm buồn, thong thả, ngân vang trên nóc nhà thờ, tiễn đưa An chìm vào giấc mộng thiên thu nơi lòng đất mẹ.
Trong quán cà phê nhỏ nằm dưới gốc thông già, văng vẳng những lời ca dìu dặt, như ru hồn người lữ thứ “…Người nhớ cho, ta là cát bụi, trở về cát bụi xin người nhớ cho.”
Thành Tuy Hạ.